Đại Việt và Chiêm Thành

.

Champa1

(Bản đồ Chiêm Thành ở thế kỷ thứ 8)

 

* Lời giới thiệu:

Mời quý vị đọc một chút lịch sử về Chiêm Thành (Champa).

– TVG.

*

Theo sử của Trung Hoa, dân tộc Chàm bắt đầu có nước Lâm Ấp thành lập vào năm 192.  Năm 190 con của quan Công Tào (của Trung Hoa) tên là Khu Liên nổi lên giết Thứ sử Chu Phù của quận Nhật Nam và năm 192 chiếm huyện Tượng Lâm miền nam quận Nhật Nam lập thành 1 vương quốc riêng.  Hậu Đường Thư của Trung Hoa gọi là Lâm Ấp Quốc.  Quận Nhật Nam từ Đèo Ngang đến Bình Định.

Năm 757 một tiểu vương ở phía Nam Lâm Ấp lật đỗ vua Bhadravarman II tự xưng làm Vua hiệu là Prithi Indravarman lập Vương triều mới.  Khi Vua nầy sai Sứ sang triều cống Trung Hoa thì sử gia Trung Hoa gọi là Hoàn Vương Quốc.

Năm 854 vua Vikrantavarman III qua đời không người nối hậu.  Nước Hoàn Vương (người Chàm gọi là Panduranga) có tranh chấp ở triều đình.  Năm 859 một vương tôn có nhiều chiến công được triều thần tôn làm vua hiệu là Indravarman II.  Vua đổi Quốc hiệu từ Panduranga (Hoàn Vương) thành Campapura.  Sử sách Trung Hoa phiêm âm là Chang Chen (từ Campapura hay Campa), tiếng Hán đọc là Chiêm Thành hay Chiêm Bà.  Tây phương gọi là Champa.

 

Các nhân vật trong lịch sử Việt Nam liên quan đến Chiêm Thành

 

  1. Dương Vân Nga

Đầu năm 979, vua Đinh Tiên Hoàng (Đinh Bộ Lĩnh) lập con út là Đinh Hạng Lang làm Thái Tử.  Mẹ của Đinh Hạng Lang vốn là mẹ của cựu sứ quân Ngô Nhật Khánh.  Ngô Nhật Khánh (cũng như 2 Sứ quân Ngô Xương Xí và Phạm Bạch Hổ) đầu hàng Đinh Bộ Lĩnh.  Vua Đinh Tiên Hoàng lấy mẹ của Ngô Nhật Khánh và gả con gái là Đinh Thị Phất Kim cho Ngô Nhật Khánh.  Sợ Ngô Nhật Khánh sẽ nắm quyền khi Đinh Hạng Lang lên làm vua, con trưởng của Đinh Tiên Hoàng là Nam Việt Vương Đinh Liễn giết Đinh Hạng Lang.  Ngô Nhật Khánh tức giận rạch mặt vợ và trốn sang Chiêm Thành.

Ngô Nhật Khánh thuyết phục vua Chiêm Thành đem “cả ngàn binh thuyền” đánh Đại Cồ Việt nhưng bị bão đắm ở cửa Thần Phù (thuộc Ninh Bình).  Ngô Nhật Khánh bị chết đuối còn vua Chiêm sống sót và rút về nước (980).

Năm 982, vua Chiêm giết sứ giả của Đại Cồ Việt.  Vua Lê Đại Hành thân làm Tướng tấn công, giết vua Chiêm là Ba Mỹ Thế (Parames’varaman I) tại trận và chiếm kinh đô Indrapura của Chiêm Thành (nay là làng Đồng Dương, Thanh Bình, Quảng Nam), bắt người, cướp của, san phẳng thành trì và phá hủy tôn miếu rồi rút về.  Cuộc viễn chinh nầy kéo dài 1 năm.  Hoàng gia Chiêm rút về Phan Rang.  Một Tướng của vua Lê Đại Hành là Lưu Kế Tôn ở lại cai trị đất Chiêm từ Quảng Bình tới Quảng Nam như một vị vua.  Ông Lưu Kế Tôn nầy xưng vương năm 986 và chết năm 988.  Vua Chiêm Thành là La Duệ (Harivarman II) chiếm lại đất và lập kinh đô ở Phật Thệ (thuộc Thừa Thiên).  Cùng năm đó (988), vua Lê Đại Hành đánh châu Địa Lý (thuộc bắc Quảng Bình) và năm 992 mở đường bộ khai thông với Chiêm Thành.

 

  1. Lý Thái Tông

Vua Lý Thái Tông là một vị vua anh hùng văn võ song toàn.  Ông tự mình dẹp giặc trong nước không còn loạn lạc nữa; dẹp giặc cha con Nùng Tồn Phúc và Nùng Trí Cao ở biên giới Cao Bằng, giết Nùng Tồn Phúc, bắt rồi đuổi Nùng Trí Cao chạy sang Tàu; đánh Ai Lao hai lần vào năm 1034 và 1048; đánh Chiêm Thành (1044) vào kinh đô Phật Thệ (nay ở làng Nguyệt Hậu, huyện Hương Thủy, Thừa Thiên) bắt Vương phi Mỵ Ê của vua Chiêm.  Tướng Quách Gia Di chém đầu vua Chiêm của mình là Sạ Đẩu (Jaya Sinhavarman II) dâng cho vua Lý Thái Tông.  Nước Chiêm dời đô về Đồ Bàn (Vijana), nay là Thị xã An Nhơn cách Thành Phố Quy Nhơn 27 km.

Sử chép rằng khi rút quân về đến Ninh Bình, Lý Thái Tông sai triệu Vương phi Mỵ Ê của Chiêm Thành sang hầu ở thuyền vua nhưng Mỵ Ê nhẩy xuống sông tự tử.  Vua Lý Thái Tông khen là người trinh tiết phong là “Hiệp chĩnh hựu thiện phu nhân.”  Các thi sĩ về sau “thi vị hóa” câu chuyện nầy:

Vịnh Mỵ Ê

Thờ chúa thờ chồng hết tấc thương

Một mình lọn đạo giữ cương thường

Non thiên dễ hóa hồn Tinh Vệ (*)

Nước biếc không nhìn mặt Phạm Vương (**)

Dòng bạc thề cùng thu có nguyệt

Sử xanh chép để bút còn hương

Rầy mừng thấy tin rồng đến

Phủ cơn râm khắp bốn phương.

(Lê Thánh Tông)

__________

(*) Tinh Vệ: con gái vua Viêm (thời thượng cổ bên Tàu) chết đuối ở biển hóa thành chim Tinh Vệ ngậm đá ở núi lấp biển cho hả giận.

(**) Phạm Vương: ý chỉ vua Chiêm Thành.  Thật ra Phạm Vương là Brahma, thần của Ấn Độ Giáo (Hindu).  Vua Lê Thánh Tông nghĩ rằng Chiêm Thành (trong thời nhà Hậu Lê) theo Ấn Độ Giáo nhưng không biết rõ về Ấn Độ Giáo.

 

Mỵ Ê

Buồm nhô rẽ sóng, Mỵ mơ màng

Tay cuốn rèm hoa, khóc gọi chàng

Thân liễu gieo đưa chìm vực biếc

Lời thương bay lãnh động rừng vang

Hoa trôi. Thành cũ vườn mây lửa

Lau gọn. Chùa cao giỏ tiếng vàng

Ủ lệ tay ngà ôm ngực huyết

Mỵ vờn theo sóng dạt bờ hoang.

(Nguyễn Nhược Pháp)

 

  1. Ỷ Lan Thái Phi

Năm 1069, vua Lý Thánh Tông (dùng ông Lý Thường Kiệt làm Tiên Phong) đi đánh Chiêm Thành giao triều chính cho Nguyên Phi và Thái sư Lý Đạo Thành.  Đánh không thắng được, vua rút quân về đến châu Cư Liên (Tiên Lữ, Hưng Yên) thì nghe dân chúng khen ngợi tài trị nước và thờ Phật của bà Nguyên Phi (Ỷ Lan) và còn gọi bà là Quan Âm.  Vua tự hổ thẹn đem quân trở lại đánh Chiêm Thành bắt được vua Chế Củ (Rudravarman III).  Vua Chế Củ dâng 3 châu Địa Lý, Ma Linh và Bố Chính (gồm Quảng Bình và phần bắc Quảng Trị) để chuộc mình.

Một trong những tù binh vua Lý Thánh Tông đem về từ Chiêm Thành là một Thiền sư Trung Hoa tên là Thảo Đường.  Tình cờ vua Lý Thánh Tông khám phá ra Thiền sư Thảo Đường, vua rất kính trọng phong làm Quốc Sư trụ trì ở chùa Khai Quốc ở Thăng Long (chùa Trấn Quốc bây giờ).  Từ đó triều đình nhà Lý theo phái Thảo Đường (từ phái Vân Môn bên Trung Hoa).  Đây là dòng Thiền thứ ba (Thảo Đường) truyền vào Đại Việt từ nhà Sư Thảo Đường (1069), nó truyền được 6 đời.

Ba vị vua của nhà Lý thành Thiền sư của dòng Thảo Đường: Lý Thánh Tông (thế hệ thứ 2, đệ tử của Thiền sư Thảo Đường), Lý Anh Tông (thế hệ thứ 4) và Lý Huệ Tông (thế hệ thứ 6).

 

  1. Lý Thường Kiệt

Năm 1103, ở Diễn Châu (Hà Tĩnh) có tên Lý Giác làm loạn bị ông Lý Thường Kiệt đánh bại nên chạy sang Chiêm Thành đem vua Chiêm là Chế Ma Na (Jaya Indravarman II) sang chiếm lại 3 châu (Địa Lý, Ma Linh và Bố Chính).  Năm sau (1104), ông Lý Thường Kiệt đánh bại Chế Ma Na, Chiêm Thành trả lại 3 châu nầy.

 

  1. Huyền Trân Công Chúa

Đời Trần Thái Tông, Vua đánh Chiêm Thành (1252) bắt vương phi của vua Chiêm Thành (Jaya Paramesvaravarman II) là Bồ Gia La.  Sau đó 2 nước đều bị quân Mông Cổ tấn công nên không giao tiếp với nhau.

Năm 1306, theo lời hứa với vua Chiêm Thành trong khi du hành ở đây 5 năm trước, Thượng Hoàng Nhân Tông gả con gái là Huyền Trân công chúa (1287-1340) cho vua Chiêm Thành là Chế Mân (Jaya Sinvaharman III) đổi lấy 2 châu Ô và Rý (còn đọc là Lý) của Chiêm Thành (nay là vùng nam Quảng Trị và Thừa Thiên).  Lúc đó vua Chế Mân đã có một bà Hoàng hậu chánh là người Java (Nam Dương). Quần thần, có Trần Khắc Chung, đồng ý. 

Huyền Trân công chúa sang Chiêm Thành là Hoàng Hậu Paramecvari, sinh một hoàng tử.  11 tháng sau vua Chế Mân chết (1307).  Vua Trần Anh Tông sai Trần Khắc Chung rước Huyền Trân công chúa đi đường biển trở về.  Hai người đi gần 1 năm trời mới về tới Thăng Long.  Theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, Trần Khắc Chung tư thông với công chúa Huyền Trân trong cuộc hành trình nầy.  Sau đó theo lệnh của Thượng Hoàng, công chúa Huyền Trân đi tu ở chùa Trâu Sơn (Bắc Ninh) cho đến khi qua đời 23 năm sau (1340). 

Sử gia hậu thế cũng có lời bàn:

Công Chúa Huyền Trân (Nguyên bản)

Đổi chác xưa nay khéo nực cười

Vốn đà chẳng mất lại thêm lời

Hai châu Ô Lý vuông nghìn dặm

Một gái thuyền quyên đáng mấy mươi

Lòng đỏ khen ai lo việc nước

Môi son phải giống mãi trên đời

Châu đi rồi lại châu về đó

Ngơ ngẫn nhìn nhau một lũ Hời!

(Hoàng Cao Khải)

 

Công Chúa Huyền Trân (Họa)

Nhà Trần tôi chúa đáng chê cười

Lợi dụng Huyền Trân để có lời

Hôn ước vua Chiêm thêm một vợ

Tư thông gái góa mới hai mươi (*)

Hồng nhan mệnh bạc vì non nước

Hiếu nữ tình chung trọn nghiệp đời

Ô Lý đổi trao về Đại Việt

Thương nàng công chúa, tội dân Hời!

(Phan Thượng Hải)

_________

(*) Lúc đó (năm 1307) Trần Khắc Chung chắc chắn là hơn 40 tuổi và có vợ con rồi vì lúc năm 1285 ông đi sứ đối khẩu với Ô Mã Nhi thì phải hơn 20 tuổi rồi.

 

Năm 1311, vua Chiêm Thành là Chế Chí (Jaya Sinhavarman IV), con Chế Mân, muốn lấy lại 2 châu Ô Lý.  Vua Trần Anh Tông đem ông Phạm Ngũ Lão cùng Huệ Võ Vương Trần Quốc Chân (Chẩn) và Nhân Huệ Vương Trần Khánh Dư phân làm 3 đạo quân đánh Chiêm Thành (1312) bắt Chế Chí về Đại Việt và phong em là Chế Đà A Bà còn gọi là Chế Năng (1312-1318) làm vua Chiêm Thành.  Chế Chí chết ở Đại Việt.

Chinh Chiêm Thành Hoàn Chu Bạc Phúc Thành Cảng

(Đánh Chiêm Thành về đậu thuyền ở cửa biển Phúc Thành)

Cẩm lãm quy lai hệ lão dung

Hiểu sương hoa trọng thấp vân bồng

Sơn gia vũ cước thanh tùng nguyệt

Ngư quốc triều đầu hồng liệu phong

Vạn đội tinh kỳ quang hải tạng

Ngũ canh tiêu cổ lạc thiên cung

Thuyền song nhất chẩm giang hồ noãn

Bất phục du chàng nhập mộng trung.

(Trần Anh Tông)                                      

 

Thuyền gấm đường về buộc gốc đa

Sương mai nặng hạt ướt mui là

Đầu thông xóm núi trăng vừa ló

Răm đỏ làng chài gió đã qua

Muôn đội cờ bay vùng biển rạng

Năm canh kèn trống điện trời sa

Bên song chợt ấm lòng sông biển

Màn trướng thôi vương giấc mộng hoa.

(Phạm Tú Châu dịch)

Vua Chế Năng cũng muốn chiếm lại Ô Lý nên Trần Minh Tông cùng Huệ Võ Vương Trần Quốc Chẩn và ông Phạm Ngũ Lão sang đánh (1318), Chế Năng thua trận chạy trốn sang Java (Nam Dương). 

Nhà Trần lập một người Chàm từng sống ở “An Nam” (Đại Việt) là Chế Ba A Niêm hay Chế Anan làm vua (1318-1342).  Nước Chiêm Thành trở thành một “chư hầu” (vassal) của Đại Việt.  Khi Chế Anan chết, người em rể là Trà Hoa Bồ Đề được người Chàm ủng hộ đuổi con của Chế Anan là Chế Mô về Đại Việt.  Nước Chiêm Thành lại độc lập khỏi Đại Việt.  Sau nầy (1353) vua Trần Dụ Tông cho quân đưa Chế Mô về nước Chiêm Thành (làm vua) nhưng bị vua Trà Hoa Bồ Đề (1342-1360) đánh bại.  Vua Trà Hoa Bồ Đề chết, người em lên nối ngôi là vua Chế Bồng Nga (1360-1390).

Vua Chế Bồng Nga (Po Binasuor) là vị vua thứ 39 của lịch sử Chiêm Thành và là vị vua hùng mạnh nhứt.  Chữ “Chế” không phải là “họ” (family name).  Nó là âm tiếng Hán từ chữ “Cei” của Chiêm Thành có nghĩa là “Bác” (Uncle) thường dùng để gọi những vị Tướng Quân (Generals).      

Trần Khắc Chung (?-1330) tên thật là Đỗ Khắc Chung, nhờ có công đi sứ chống lại Tướng Ô Mã Nhi của giặc Nguyên nên được vua Trần cho đổi thành họ Trần.  Trần Khắc Chung làm quan đầu trong triều đình đời vua Anh Tông và Minh Tông. 

Hoàng tộc nhà Trần biết chuyện (tư thông) giữa ông và công chúa Huyền Trân đều ghét Trần Khắc Chung.  Hưng Nhượng Vương (con Hưng Đạo Vương) mắng Trần Khắc Chung tại triều đình.  Về sau có người vu cáo Huệ Vũ Vương Trần Quốc Chẩn (em vua Trần Anh Tông), Trần Khắc Chung xúi vua Trần Minh Tông bỏ đói ông nầy cho đến chết (mặc dù Trần Quốc Chẩn là chú của Minh Tông và là cha của Hoàng hậu) và còn để cho hàng trăm người nhà ông nầy chết oan theo.  Về sau việc vỡ lỡ nhưng Trần Khắc Chung không bị tội.  Khi Trần Khắc Chung chết, con của Trần Quốc Chẩn cho người đào xác lên mà “bằm nhỏ.” (ĐVSKTT).

Chuyện công chúa Huyền Trân đổi lấy 2 châu của Chiêm Thành là một trong những quá trình nước Đại Việt chiếm nước Chiêm Thành (trong hơn 600 năm):

Lúc đầu Hoành Sơn (Đèo Ngang) là biên giới giữa nước Đại Cồ Việt (rồi Đại Việt) và nước Chiêm Thành.

Năm 1069, vua Lý Thánh Tông đánh Chiêm Thành bắt vua Chế Củ về Thăng Long.  Vua Chế Củ dâng 3 châu Địa Lý, Ma Linh và Bố Chính (gồm Quảng Bình và phần bắc Quảng Trị) để chuộc mình.

Năm 1306, Thượng hoàng Trần Nhân Tông gả công chúa Huyền Trân cho vua Chế Mân đổi lấy 2 châu Ô và Lý (phần nam Quảng Trị và Thừa Thiên).  Biên giới là đèo Cả (Hải Vân).

Năm 1402, Chiêm Thành thua trận, dâng cho vua Hồ Quý Ly đất Ba Động (Quảng Nam) và đất Cổ Lũy (Quảng Ngãi).

Năm 1470, vua Lê Thánh Tông chiếm kinh đô Đồ Bàn và vùng chung quanh (nay là Qui Nhơn).  Biên giới là đèo Cù Mông.

Năm 1611, chúa Nguyễn Hoàng chiếm Phú Yên (Tuy Hòa).

Năm 1653, chúa Nguyễn Phúc Tần chiếm Nha Trang (Khánh Hòa).

Năm 1693, chúa Nguyễn Phúc Chu sai Chưởng Cơ Nguyễn Hữu Cảnh chiếm Phan Rang và Phan Rí (Phan Thiết).  Nước Chiêm Thành bị tiêu diệt.

 

  1. Trần Nghệ Tông

Vua Trần Nghệ Tông, lên ngôi năm 1370 lúc 50 tuổi, là một thi sĩ giỏi nhưng là một nhà lãnh đạo nhu nhược, lại phải đương đầu với ông vua hùng mạnh của Chiêm Thành là Chế Bồng Nga và sau đó với người bà con cô cậu gian ác là Lê Quý Ly.

Vì mẹ của Dương Nhật Lễ sang cầu cứu Chiêm Thành, vua Chế Bồng Nga đem quân tấn công theo cửa Đại An vào sông Đáy cướp phá Thăng Long làm vua Trần Nghệ Tông phải bỏ chạy khỏi kinh đô (1371).  Sau 2 năm làm vua, vua Trần Nghệ Tông (52 tuổi) giữ thông lệ cũ lên làm Thái Thượng Hoàng truyền ngôi cho em là Cung Tuyên Vương Kính tức là Trần Duệ Tông (năm 1373).  Tháng giêng năm 1377, vua Trần Duệ Tông (1337-1377) đi đánh Chiêm Thành để báo thù, vua bị Chế Bồng Nga phục binh bắn chết ngay trong thành Đồ Bàn.  Lê Quý Ly giữ hậu quân ở cửa Thị Nại bỏ chạy không tiếp viện.

Thượng Hoàng Nghệ Tông lập con thứ của Duệ Tông là hoàng tử Trần Hiện (1361-1388), cháu kêu mình bằng bác, đang 16 tuổi có mẹ là Gia Từ hoàng hậu (em của Lê Quý Ly).  Đó là vua Trần Phế Đế. 

Vua Chế Bồng Nga của Chiêm Thành lại tấn công và cướp phá Thăng Long vào tháng 11 năm 1377 (theo cửa Thần Phù vào sông Chính Đại ở Yên Mô, Ninh Bình) và vào năm 1378 (theo sông Đại Hoàng tức là sông Châu Giang ngày nay nên chắc phải vào cửa Đại An của sông Đáy rồi theo sông Châu Giang qua sông Hồng?)  Lê Quý Ly và quân nhà Trần chận đứng được quân Chiêm vào năm 1380 (ở Thanh Hóa) và Nguyễn Đa Phương thắng quân Chiêm vào năm 1382 (ở cửa Thần Phù).  Năm 1383, Chế Bồng Nga cùng tướng là La Khải, theo sơn lộ (? từ Thanh Hóa) đến Quốc Oai (nay là Quốc Oai, Hà Tây) vào cướp phá Thăng Long lần thứ 4, Nghệ Tông lại chạy qua bên kia sông Hồng lánh nạn.  Quân Mông Cổ chỉ chiếm Thăng Long có 2 lần nhưng quân Chiêm Thành đánh hạ Thăng Long 4 lần (1371, 1377, 1378 và 1383), cướp phá và rút về. 

Thượng Hoàng Nghệ Tông phế Trần Phế Đế và ép thắt cổ chết rồi lập con nhỏ của mình là Ngung (1377-1399) làm vua là Trần Thuận Tông (năm 1388). 

Đầu năm 1389, Chế Bồng Nga lại tấn công Đại Việt đánh bại Lê Quý Ly ở Thanh Hóa nhưng nhờ Nguyễn Đa Phương thủ bờ bắc sông Ngu Giang làm kế nghi binh cấm nhiều cờ xí ở dinh trại nên quân Chiêm không dám tấn công và rút về.  Lê Quý Ly ghen tị giết Nguyễn Đa Phương.  Ở địa phận Thanh Hóa có hạ lưu sông Mã.  Khi xưa khi sông Mã chảy gần tới biển là khúc sông Tào Xuyên (gọi là Ngu Giang) ra cửa Lạch Trường nhưng sông và cửa nầy bị hẹp thời nhà Nguyễn nên sông Mã mở rộng theo 1 nhánh nhỏ chảy ra cửa Lạch Hới gần núi Hàm Rồng ngày nay.  Do đó những lần vào Thanh Hóa chắc Chế Bồng Nga dùng cửa Lạch Trường của sông Mã.

Tháng 11 năm 1389, vua Chế Bồng Nga lại vào sông Hồng (cửa Ba Lạt?) đến Hoàng Giang (? khúc sông Hồng ở Nam Xương, Hà Nam), đóng quân và cướp phá ở vùng Thái Bình và Hưng Yên.  Lê Quý Ly cứ bị đánh thua nên Thượng Hoàng Nghệ Tông dùng ông Trần Khát Chân (dòng dõi ông Trần Bình Trọng) cầm quân chống giặc.  Đầu năm 1390, ông Trần Khát Chân đóng quân ở sông Hải Triều (khúc sông Luộc ở giữa Tiên Lữ, Hưng Yên và Hưng Nhân, Thái Bình).  Nhờ một hàng tướng Chiêm Thành (tên là Ba Lậu Kê) cho biết dấu hiệu riêng của thuyền Chế Bồng Nga (có sơn màu xanh), ông Trần Khát Chân nhân lúc Chế Bồng Nga đi thị sát mặt trận ở sông Hải Triều cho quân tập trung hỏa khí bắn vào chiếc thuyền nầy và may mắn giết chết Chế Bồng Nga. Tướng La Khải và quân Chiêm phải rút về nước, con cháu Chế Bồng Nga đầu hàng và về ở Đại Việt.  Tướng La Khải lên làm vua và từ đó nước Chiêm Thành suy yếu không còn cạnh tranh nổi với Đại Việt.

 

Chế Bồng Nga

Sơn hà nguy biến tự Chiêm Thành

Bởi Chế Bồng Nga khởi chiến tranh

Đại Việt ra vào không quản ngại

Thăng Long cướp phá mặc tung hoành

Vua Trần thất thế, điều nhân quả?

Sông Luộc đưa đường, chuyện tử sanh

Hỏa khí Khát Chân tàn thảm họa

Nên khi nước loạn biết hùng anh.

(Phan Thượng Hải – 4/18/15)

 

  1. Lê Thánh Tông

Năm 1442, các ông Trịnh Khả (1403-1451),  Lê Thụ và Nguyễn Xí phò Thái tử Bang Cơ lên ngôi là Lê Nhân Tông.  Vua Lê Nhân Tông là vua trẻ tuổi nhất của nước Việt khi lên ngôi (18 tháng). 

Năm 1444, vua Bí Cai của Chiêm Thành đánh Hóa Châu (Huế ngày nay) nhưng bị các ông Lê Thụ, Nguyễn Xí và Lê Khôi đẩy lui.  Năm 1446, các ông Trịnh Khả, Lê Thụ và Lê Khôi đánh Chiêm Thành vào kinh thành Đồ Bàn bắt vua Bí Cai (Bi Cai) về Đông Kinh rồi lập người cháu là Mã Kha Qui Lai (Maija Vijaya) làm vua (của Chiêm Thành).  Ông Lê Khôi qua đời trên đường rút quân về.

Năm 1470, vua Lê Thánh Tôn thân chinh đánh Chiêm Thành.  Vua đem quân theo đường thủy bộ vào Thuận Hóa, ở đây luyện tập quân một thời gian rồi mới theo đường thủy bộ vào đánh kinh đô Đồ Bàn của Chiêm Thành.  Đây là bài thơ vua Lê Thánh Tông làm khi qua đèo Hải Vân.

 

Vịnh Đèo Cả (Hải Vân)

Dặm liễu nghìn mai cảnh quạnh hiu

Chia đôi Thuận Quảng một hòn đèo (*)

Lá dòm mặt nước cây mong lội

Biển bọc chân non sóng muốn trèo

Trái đất nằm ngang đường ngốc ngách

Chưn trời đứng sựng dốc cheo leo

Vén chân thử bước lên trên ngút

Dỏi thấy vầng trăng đỏng đảnh theo.

(Vua Lê Thánh Tôn)

________________________

(*) Thuận Hóa và Quảng Nam.  Thuận Hóa gồm Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên ngày nay.  Quảng Nam gồm Quảng Nam, Quảng Ngãi và Qui Nhơn ngày nay.  Đèo Hải Vân giữa Thừa Thiên và Đà Nẳng.

 

Trong chiến dịch nầy, vua Lê Thánh Tôn cùng các tướng Đinh Liệt, Lê Niệm và 26 vạn quân Đại Việt hạ kinh đô Đồ Bàn của nước Chiêm Thành, “cắt 4 vạn thủ cấp,” bắt vua Bà La Trà Toàn, gọi tắt là Trà Toàn (1460-1471), và hơn 3 vạn (30,000) tù nhân.  Tướng Bồ Trì Trì rút về nam đèo Cù Mông (giữa Qui Nhơn và Phú Yên) và lên làm vua.  Nước Đại Việt thêm đất Qui Nhơn bành trướng tới đèo Cù Mông.

Vua Lê Thánh Tông chia nước Chiêm Thành còn lại ra làm 3 nước: Bồ Trì (hay Bồ Trì Trì) là vua nước Chiêm Thành gồm Nha Trang, Phan Rang và Phan Thiết; Hoa Anh Vương cai trị nước Nam Hoa ở Phú Yên và Nam Bàn Vương cai trị nước Nam Bàn gồm vùng đất phía tây núi Thạch Bì (núi Đại Lĩnh có đèo Hải Vân) tức là vùng Tây Nguyên (Cao Nguyên Trung Phần) ngày nay.

Vùng Tây Nguyên nầy gồm vùng Pleiku, Komtum, Ban Mê Thuột và Lâm Đồng (Đà Lạt-Bảo Lộc).  Vùng nầy chính thức vào bản đồ nước Việt Nam vào thời vua Minh Mạng chỉ có người Thượng sinh sống và hình như không có cơ quan hành chánh trong thời chúa Nguyễn (dù đã chiếm Phú Yên và Chiêm Thành), nhà Tây Sơn và nhà Nguyễn.

Năm 1891, Bác sĩ Yersin thám hiểm công viên Lâm Đồng và báo cáo nên người Pháp mới để ý đến vùng nầy.  Từ năm 1896 đến 1899, chính phủ Pháp áp lực triều đình nhà Nguyễn để họ tự cai trị vùng Tây Nguyên (như thuộc địa) và cho người Pháp lên mở đồn điền.  Người Pháp lập tỉnh Komtum (1907), tỉnh Pleiku (1917), thị xã Đà Lạt là nơi nghĩ mát (1917), tỉnh Lâm Đồng (1920) và tỉnh Darlac ở Ban Mê Thuột (1923).

Năm 1946, sau khi trở lại Đông Dương, Cao ủy D’Argenlieu lập Tây Nguyên thành “Xứ Thượng Nam Đông Dương” (Pays montagnards du Sud Indochinois) do người Thượng tự trị (như Nam Kỳ Quốc).  Năm 1950, nó sát nhập vào Quốc Gia Việt Nam của Quốc trưởng Bảo Đại (gọi là Hoàng Triều Cương Thổ) cho đến năm 1955 thì thuộc nước Việt Nam Cộng Hòa của chính phủ Ngô Đình Diệm.  

 

  1. Nguyễn Hoàng

Cuối đời nhà Mạc, ông Nguyễn Kim (1468-1545) phò vua Lê Trang Tông ở Thanh Hóa mong chiếm lại đất nước từ nhà Mạc.  Ông Nguyễn Kim bị hàng tướng nhà Mạc là Dương Chấp Nhất đánh thuốc độc chết, binh quyền thuộc về rể là ông Trịnh Kiểm (1503-1570).  Thái Sư Trịnh Kiểm kiếm cớ định tội giết con của ông Nguyễn Kim là Nguyễn Uông.  Đoan Quận Công Nguyễn Hoàng (em Nguyễn Uông) hỏi ý kiến ông Trạng Trình (phải làm sao?) thì câu trả lời bất hủ là:

Hoành Sơn nhất đái, vạn đại dung thân” (Hoành Sơn một dãy, muôn đời dung thân).

Ông Nguyễn Hoàng liền nhờ chị là Ngọc Bảo xin với chồng là ông Trịnh Kiểm vào trấn thủ đất Thuận Hóa, nam của Hoành Sơn thì được chấp thuận.

Năm 1558, ông Nguyễn Hoàng (1525-1613) dẫn mấy ngàn dân quân vượt Đèo Ngang của Hoành Sơn vào Thuận Hóa (gồm tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên bây giờ).  Năm 1569, ông kiêm nhiệm Trấn Thủ Quảng Nam (gồm tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi và Qui Nhơn) và sau đó năm 1611 vượt đèo Cù Mông (giữa Bình Định và Phú Yên) chiếm Phú Yên đến biên giới Tuy Hòa (Phú Yên) và Khánh Hòa (Nha Trang) bây giờ.  Đèo Cù Mông là đèo hiểm trở nhất nước Việt dài 7 km, cao 245 m và dốc 9%.  Nước Chiêm Thành chỉ còn Khánh Hòa (Nha Trang), Phan Rang và Phan Thiết. 

 

Chúa Nguyễn Hoàng

Nghe lời Sấm Trạng quá Đèo Ngang

Mạo hiểm Tiên phong, Chúa Nguyễn Hoàng

Trọng dụng nhân tài an Thuận Hóa

Nương nhờ địa lợi thủ Linh Giang

Đàng Trong nước Việt dân hùng mạnh

Nghiệp cả trời Nam đất mở mang

Vạn đại thành công truyền hậu duệ

Dung thân khai quốc tự Hoành San.

(Phan Thượng Hải – 1/18/15)

 

  1. Nguyễn Hữu Cảnh và Nguyễn Cư Trinh

Một người có công lớn trong việc mở mang ở Nam Kỳ là quan Chưởng Cơ Nguyễn Hữu Cảnh hay Nguyễn Hữu Kính (1650-1700), con thứ ba của ông Nguyễn Hữu Dật và là cháu 9 đời của ông Nguyễn Trãi.  Người Nam gọi ông là “Ông Chưởng.”  Nhiều chỗ ở miền Nam có đền thờ ông như ở cù lao Ông Chưởng (nay ở Chợ Gạo, An Giang).

Cù Lao Ông Chưởng

Noi dấu tôi công tự thuở giờ

Cù lao Ông Chưởng đó trơ trơ

Xanh om mấy cụm bần theo bãi

Trắng xóa đôi bên sóng phủ bờ

Người chết nhang đèn chong vẫn tỏ

Tên còn treo lụa nét không mờ

Ngàn thu trở xuống nhuần ơn sót

Châu Đốc Nam Vang có miếu thờ.

(Tôn Thọ Tường)

 

Năm 1693, ông Nguyễn Hữu Cảnh chiếm nốt nước Chiêm Thành đặt thành phủ Bình Thuận (Phan Rang và Phan Thiết).  Nước Chiêm Thành bị tiêu diệt.

 

  1. Bà Huyện Thanh Quan

Theo ông Sơn Nam trong “Chuyện xưa tích cũ, tập 1”:

Nhiều người cho rằng con Cuốc là hóa thân của vua nước Thục.  Xưa kia, khi nước Thục bị nước Sở chiếm, vua nước Thục tự tử đầu thai thành con chim tối ngày nhớ nước cứ kêu: Cuốc! Cuốc!

Lại có tích khác nói rằng vua nước Chiêm Thành tên là La Hoa có một quân sư tên là Cuốc.  Vua không nghe lời ông Cuốc kéo quân đi đánh với quân Việt thì bị thua và tử trận ở đèo Ngang.  Cuốc cũng chết trận.  Hồn của ông Cuốc tìm hồn của vua La Hoa nhưng tìm mãi không thấy.  Vì vậy ông kêu: Cuốc! Cuốc! La Hoa! (Nghĩa là tôi là Cuốc đây, còn ông là La Hoa, ông ở đâu?)

Bài thơ của bà Huyện Thanh Quan vịnh cảnh đèo Ngang theo ý vài người thì nguyên văn như vầy:

 

(Bản chánh)

Qua ải đèo Ngang bóng ác tà

Cỏ cây chen đá, lá chen hoa

Non cao rải rác tiều vài chú

Đất rộng lưa thưa xóm mấy nhà

Nhớ chúa đau lòng con Cuốc Cuốc

Kêu người mỏi miệng tiếng Hoa Hoa

Dừng chân ngoảnh lại trời, non, nước

Một mảnh tình riêng ta với ta

(Bà Huyện Thanh Quan)

 

(Bản của Sơn Nam)                                   

Qua ải đèo Ngang bóng ác tà

Cỏ cây chen đá, lá chen hoa

Non cao rải rác tiều vài chú

Đất rộng lưa thưa xóm mấy nhà

Nhớ chúa đau lòng con Cuốc Cuốc

Kêu người mỏi miệng tiếng Hoa Hoa

Dừng chân ngoảnh lại trời, non, nước

Một mảnh tình riêng ta với ta…

(Bà Huyện Thanh Quan)                           

 

Tuy nhiên độc giả thông thường ngày nay vẫn thích “Bản Chánh” hơn cho dù có biết “Bản của ông Sơn Nam!”

Điều đó cũng có lý do khi ta đọc lời phê của thi sĩ Quách Tấn về “Bản Chánh” của bài “Qua Đèo Ngang Tức Cảnh” như sau:

Bốn câu đầu không có gì đặc sắc về cảnh, văn chương lại có phần dễ dãi không xứng với ngòi bút của một bậc đại gia.  Cặp Luận mang vết tiểu xảo, tả tình nhớ nước thương nhà mà không gây được chút cảm xúc nơi người đọc.  Đọc đến câu thứ 6 “Thương nhà mỏi miệng cái gia gia” thì khách yêu thơ muốn bỏ để tìm bài khác.  Nhưng đọc xuống Chuyển Kết (câu 7 và 8) thì chẳng khác vừa trèo lên một ngọn đồi đá nổi cây cằn, chợt đến đỉnh cao nhìn thấy biển xanh sóng vờn theo chiều gió mát.  Khách yêu thơ tự nhiên quên hết niềm khó chịu vừa rồi, và mỉm cười tự nhủ: Nhờ có mấy câu trên mới có được 2 câu nầy chứ, có cá không nên phụ canh.  Thế là 6 câu trên cùng 2 câu nầy, 2 câu giai tác nầy tồn tại.

Theo sử Việt Nam thì có một ông vua Chiêm Thành tên là La Khải.  Ông là tướng của vua Chiêm Thành Chế Bồng Nga.  Khi Chế Bồng Nga đánh Đại Việt bị tử trận (1390), La Khải tự lập làm vua Chiêm Thành và con cháu Chế Bồng Nga đầu hàng sang ở Đại Việt.  Từ đó tên của các ông vua Chiêm Thành không có chữ “Chế” nữa.  Năm 1400, nhà Trần (dưới thời Lê Quý Ly) đánh với Chiêm Thành ở đất Thuận Hóa và giết chết La Khải.  Đèo Ngang ở bắc Thuận Hóa có lẽ là nơi chiến trường.  Tiếng Hán gọi là La Khải có lẽ tiếng Nôm gọi là La Hoa.  Tên Chiêm Thành của ông nầy viết là Po Parichan (không ai biết đọc đúng theo tiếng Chiêm Thành là gì?)

 

  1. Nguyễn Thái Học và Cô Giang

Ông Nhượng Tống là một trong những người thành lập Việt Nam Quốc Dân Đảng.  Năm 1929 theo lệnh của ông Nguyễn Thái Học,  Nhượng Tống vào Huế liên lạc với ông Phan Bội Châu thì bị Pháp bắt và đi tù Côn Đảo nên ông không bị chết trong cuộc khởi nghĩa 1930.  Sau 10 năm tù, ông tiếp tục làm cách mạng chống Pháp ở Bắc Kỳ nhưng bị Việt Minh thủ tiêu năm 1949.  Lòng ái quốc vẫn còn mãi:

 

Cảm Đề Lịch sử

Ba xứ non sông một giải liền

Máu đào xương trắng điểm tô nên

Cơ trời dù đổi trò tang hải

Mặt đất chưa tàn nghiệp tổ tiên

Có nước có dân đừng rẻ rúng

Muốn còn muốn sống phải đua chen

Giựt mình nhớ chuyện nghìn năm cũ

Chiêm, Lạp xưa kia vốn chẳng hèn.

(Nhượng Tống)

 

Phan Thượng Hải (Biên soạn)

 

Đại Việt và Chiêm Thành – Phan Thượng Hải

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *