Áo yếm

 .

 

*

 

Lời giới thiệu

 

Chúng ta có thể định hình văn hóa Việt qua áo yếm theo quan niệm văn hóa của UNESCO, cái yếm là di sản văn hóa hữu thể (tangible) nhìn thấy được còn các câu ca dao, thi văn chung quanh cái yếm là di sản văn hóa vô hình hay vô thể (intangible) không nhìn, sờ thấy được.

 

Nguyễn Huy

 

*

 

Cái yếm xuất hiện từ bao giờ? Về nguồn gốc của cái yếm, tài liệu sử gần như không có và không rõ yếm xuất hiện vào giai đoạn nào, nhưng dựa trên các tài liệu lịch sử sau thì yếm xuất hiện thời đô hộ:

 

  • Vì những cải cách của Tích Quang. Theo Đào Duy Anh “Tích Quang dạy cho dân cày cấy, biết đội mũ đi dày, dạy phép mối lái cho họ biết hôn thú, lại lập các học hiệu (Hậu Hán Thư, Q.116).”
  • Đến đời nhà Lý (thế kỷ 12) chiếc yếm đã trở thành một nhu cầu không thể thiếu của người phụ nữ Việt nam, từ mệnh phụ công nương chốn cung đình đến bàn dân thiên hạ nơi ruộng đồng lam lũ.
  • Vào thời Lê trung hưng, theo thi phẩm Thập giới cô hồn quốc ngữ văn (十戒孤魂國語文) của vua Lê Thánh Tông, các hoa nương thường chuộng mặc “yếm chéo cánh, cạnh thêu,” có màu “lục cổ vẹt, đỏ tiết dê, xống dang chân thắt đáy” [1].

 

Yếm là một miếng vải mỏng manh có khổ vuông, hai đầu nhọn đính dây để nẹp vào cổ và eo cốt che kín từ vú đến rốn, hở nách.

 

Cái yếm rất thô sơ, thô sơ nhưng lại rất thơ mộng làm nguồn cảm hứng cho thi văn lãng mạn và trữ tình  tạo nên sắc thái văn hóa được biểu hiện qua luồng thi văn bình dân dưới hình thức ca dao rất mộc mạc, dễ hiểu. Thí dụ như:

 

Hỡi cô yếm thắm đeo bùa,
Bác mẹ có bán anh mua nửa người.

 

Cái yếm thì gợi tình được diễn tả bằng thi văn tao nhã, tế nhị giữa đàn ông và đàn bà đối đáp văn chương hữu tình với nhau. Đàn ông thường mượn cái yếm để tỏ tình vì vậy mà cái yếm trở thành chủ đề lãng mạn trong thi ca tình tứ của dân tộc.

 

 

Cách mặc áo yếm

 

Áo yếm che hững hờ trước ngực, vừa kín vừa hở rất là gợi cảm nên thơ, để lộ phần lưng thắt đáy như lưng ong, vừa kín đáo nhưng cũng tăng vẻ khêu gợi. Áo yếm thường làm bằng một mảnh vải hình vuông, một góc cắt lẹm đi rồi đính 2 dải vải buộc vào sau gáy. Hai góc trái và phải cũng đính 2 dải vải gọi là dải yếm, dài đủ dài để buộc ra sau lưng thành một cái nút làm ngẩn ngơ những cặp mắt của thi nhân:

 

Em thắt làm chi giải yếm tơ
Sao không thả lỏng để anh nhờ
Rắc rối cho đời thêm cái gút
Gỡ mãi xuân tàn tóc bạc phơ.

 

Mùa hè trời nóng bức, áo yếm xử dụng trong nhà, mặc thêm áo cánh khi ra ngoài.  Sự xuất hiện chiếc yếm được ca tụng, tôn vinh cái “lưng ong”, nét đẹp của phụ nữ trong văn hóa Việt Nam. Bên ngoài yếm là áo cánh trắng, mỏng được chiếc thắt lưng giữ với cạp váy. Ngoài cùng khoác áo tứ thân. Cái yếm ở miền Trung thì có hình tam giác. Khoảng thời Lê trung hưng trở đi, thứ có cổ khoét tròn được gọi là yếm cổ xây, cổ nhọn như chữ V gọi yếm cổ xe, đáy chữ V khoét sâu hơn lại là yếm cổ nhạn. Riêng đàn bà thường kết hợp mặc yếm với váy đụp.

 

 

Mầu vải yếm

 

Hầu hết đàn bà ưa dùng các màu trắng, mỡ gà, điều, bã trầu, hoa cà, nâu, cũng có các màu nõn chuối, cánh trả, gốm nhưng hiếm hơn. Người phong lưu dùng yếm dệt từ lụa hoặc thổ cẩm, dân hạ lưu chọn các loại vải kém bền hơn như bông, tơ chuối. Mặt yếm có thể thêu hoa, bướm hoặc uyên ương, trường hợp đặc biệt hơn là con dơi (phúc), quả ổi (lộc), quả đào (thọ) hoặc các biểu hiện đạo đức.

 

Yếm của các  bà lao động nghèo thì bằng vải thô, màu nâu. Vào ngày lễ hội thì yếm đủ màu sắc: yếm trắng, yếm thắm, yếm hồng bằng nhiễu, chúc bâu, lụa…

 

Yếm đào theo gió vờn bay
Quai thao che mặt bàn tay thon mềm.

Hỡi cô yếm thắm lòa lòa,
Yếm nhiễu, yếm vóc hay là chúc bâu.
Hay là luạ bạch bên Tàu,
Người cắt cũng khéo, người khâu cũng tài.

Hỡi cô mặc áo yếm hồng,
Đi trong đám hội có chồng hay chưa.

Yếm điều em hãy còn màu,
Răng đen da trắng, mái đầu còn xanh.

 

 

Các loại yếm [2]

 

Các thi nhân thường phân loại yếm theo đặc tính của yếm: yếm xạ hương, yếm ém trầu, yếm hở lườn, yếm gặp mưa, dải yếm phải gió…

     

Yếm đeo bùa xạ Hương

 

Bùa là xạ hương (tỏa mùi thơm như nước hoa ngày nay) đựng trong cái túi buộc vào cổ yếm. Cô gái có cổ yếm  đeo bùa (túi đựng xạ hương) tỏa ra hương thơm ái tình (giống như mọi sinh vật trên trái đất) đứng hàng thứ 5 trong mười thương:

 

Năm thương cổ yếm đeo bùa.

 

Dù đọc kinh nhắm mắt bịt tai nhưng mũi phải mở để thở nên nhà sư dễ dàng thất điên bát đảo khi ngửi thấy hương thơm của bùa đeo ở cổ yếm hòa quyện với mùi da thịt.

 

Ba cô đội gạo lên chùa,
Một cô yếm thắm bỏ bùa cho sư.
Sư về sư ốm tương tư,
Ốm lăn ốm lóc cho sư trọc đầu.

 

Bùa mùi hương của cơ thể ấp ủ trong yếm cũng làm cho chàng trai si tình phải thốt lên:

 

Đêm nằm đắp chục chiếc chăn,
Làm sao sánh được ấm bằng yếm em.

 

Vào ngày mưa gió giá lạnh, anh chàng si tình đã chiếm được lòng cô gái thì ở nhà ôm dải yếm hít hà mùi hương cơ thể ấp ủ trong dải yếm mà mơ màng.

 

Trời mưa trời gió kìn kìn,
Đắp đôi dải yếm hơn nghìn chăn bông.

 

 

Cái yếm ém trầu

 

Khẩu trầu dải yếm  là miếng trầu được “ém trong dải yếm đem ra mời người tình.

 

Khi chàng trai hợp nhãn đến chơi thì cô gái mời trầu để mở đầu câu chuyện.

 

Trầu em têm tối hôm qua,
Cất trong dải yếm mở ra mời chàng.

 

Nàng có 3 loại trầu: trầu túi (trầu đựng trong túi), trầu khăn (trầu gói trong khăn), trầu dải yếm (trầu ém trong dải yếm) và hỏi chàng rằng:

 

Trầu này trầu túi, trầu khăn,
Cùng trầu dải yếm anh ăn trầu nào?

 

Nếu chàng trai chọn trầu trong túi trong khăn tức ẩn ý chỉ là bạn hữu. Nếu chàng trai chọn trầu dải yếm tức khẩu trầu dải yếm có nghĩa đã thuận tình nhau mong cùng nàng kết nhân duyên thì cô gái mở gói trầu buộc ở dải yếm đem ra mời chàng. Ăn xong miến trầu thì nàng mới hỏi:

 

Trầu em buộc dải yếm đào,
Hỏi người tri kỷ ăn vào có say?

 

 

Cái yếm mưa gió

 

Nếu bất chợt gặp cô nàng mặc yếm mỏng manh giữa trời mưa gió, thì mắt anh chàng mở to như hai cái tô say mê nhìn cảnh cái yếm chống lại mưa gió như thế nào.

 

Gió đùa yếm thắm đu đưa,
Mưa rơi ướt yếm,  trái dừa đòi ra.

 

Đến khi gió nổi to quá, đánh vạt cái yếm thì mắt anh chàng sáng rực tưởng nàng hớ hênh.

 

Gió đánh yếm nàng, gió đè ngực nàng,
Mắt anh rực sáng vì nàng hớ hênh.

 

Lúc đó chàng trai mới tán tỉnh:

 

Trời mưa lấy yếm mà che,
Anh đây đứng gác còn e nỗi gì.

Trời mưa thì mặc trời mưa,
Em đây cởi yếm che mưa anh về.

 

 

Cái yếm hở lườn, dải yếm phải gió

 

Hình ảnh đẹp của nam nữ ở nông thôn là mặc yếm hở lườn đi với đóng khố đuôi lươn.

 

Đàn ông đóng khố đuôi lươn,
Đàn bà yếm thắm hở lườn mới xinh.

 

Mỗi khi gió thổi, dải yếm tung bay để lộ ra phần lưng và ve vuốt hở hai bên lườn trông thật hấp dẫn và trữ tình nhất. Hình ảnh này làm cho anh lái đò rạo rực lúc nhìn thấy yếm để hở lườn, dải yếm lại phất phơ trước gió, mà cao hứng tán tỉnh cô gái như thế này:

 

Thuyền anh ngược thác lên đây,
Mượn đôi dải yếm làm dây kéo đò.

 

Cô gái biết anh chàng láu lỉnh ghẹo mình nên trả lời:

 

Ước gì dải yếm em to,
Để em buộc lấy mũi đò kéo lên.
Ước gi dải yếm em bền,
Để em buộc lấy kéo lên trên bờ.

 

 

Mối tình dải yếm bên sông

 

Cảnh dòng sông cách trở đôi bờ cũng làm chúng ta nhớ đến cô gái mơ tưởng đến người tình mà mơ màng cởi dải yếm làm cầu cho chàng sang chơi.

 

Ước gì sông hẹp bề ngang,
Bắc cầu dải yếm cho chàng sang chơi.

 

Còn anh hàng xóm bên kia sông, ngày ngày thấy nàng phơi yếm mà gạ gẫm nàng:

 

Gần đây mà chẳng sang chơi,
Để anh ngắt ngọn mồng tơi bắc cầu.

 

Khi nàng đã thuận tình nghĩ đến việc trăm năm thì cô gái mượn dải yếm mà ấp ủ duyên tình dải yếm bắt đầu bằng câu trả lời:

 

Mồng tơi chả bắc được đâu,
Em cởi dải yếm bắc cầu anh sang.

 

Thế là từ ngày nàng cởi dải yếm, duyên tình dải yếm làm anh chàng tương tư cái yếm suốt đời.

 

Ta về ta cũng nhớ mình,
Nhớ yếm mình mặc, nhớ tình mình trao.

 

 

Yếm làm quà tặng

 

Nhìn thấy cô gái kia mặc yếm hoa chanh, đó là quà tặng của người yêu đấy.

 

Anh mua cho em cái yếm hoa chanh,
Ra đường bạn hỏi, nói của anh cho nàng.

 

Nhưng chẳng may, tình yêu lại ghé bến sầu, dải yếm đổi mầu nay thành lỗi hẹn, khiến chàng dỗi hờn đòi lại cái yếm.

 

Hoa cúc vàng nở ra hoa cúc tím,
Em có chồng rồi trả yếm cho anh.

 

Cái yếm lỗi hẹn thì trả lời rằng.

 

Hoa cúc vàng nở ra hoa cúc xanh,
Yếm em em mặc, yếm chi anh đòi.

 

Chiếc áo yếm làm anh chàng xót thương, tiếc nuối mà nguyện ước rằng.

 

Kiếp sau đừng hóa ra người,
Hóa ra dải yếm buộc người tình nhân.

 

 

Có cái gì bên trong yếm?

 

Nơi các tiên (immortel) tu Đạo Lão ở là những hòn đảo hình trái bầu gọi là Bồng đảo hay Bồng lai trên biển Bột Hà. Trên đảo có lạch nước chảy giữa những cây đào gọi là Đào nguyên. Nữ sĩ Hồ Xuân Hương đã dùng thi văn mô tả cõi tiên bên dưới cái yếm có đôi gò bồng đảo ở trên, có lạch Đào Nguyên ở dưới, có nương nong (ngực) trên người cô trinh nữ.

 

Lược trúc lỏng cài trên mái tóc,
Yếm đào trễ xuống dưới nương nong.
Đôi gò bồng đảo sương còn ngậm,
Một lạch Đào Nguyên suối chửa thông.

 

Bài thơ “Gái rửa bờ sông của thi hào Nguyễn Khuyến tả ông Hà Bá nhìn thấy vật đó bên trong yếm có hình thù như thế này.

 

Thu vén giang sơn một cặp tròn,
Nghìn thu sương tuyết vẫn không mòn.
Biết chăng chỉ có ông Hà Bá,
Mỉm mép cười thầm với nước non.

 

Đôi khi, chỉ cần nhìn mấy bà chồng con thỗn thện cũng biết ông Hà Bá nhìn thấy gì dưới cái yếm.

 

Khi xưa ở với mẹ cha
Một năm chín yếm xót xa trong lòng
Từ khi em về nhà chồng
Chín năm một yếm, em lật trong ra ngoài.

Chưa chồng yếm thắm đeo hoa,
Chồng rồi hai vú bỏ ra tày giành

 

 

__________

Chú Thích

 

 

[1] Biếc búp dong, tía rọc ráy, yếm chéo cánh, cạnh thêu,
Lục cổ vẹt, đỏ tiết dê, xống dang chân thắt đáy.
Tiếng thót ẻo à ẽo ợt,
Nết làm chuộng quý chuộng thanh.
Lê Thánh Tông, Thập giới cô hồn quốc ngữ văn, Giới hoa nương.

[2] Tại số 38 Hàng Đào, Hà Nội, còn giữ lại tấm bia đá ghi lại đây vốn là đình thờ cụ tổ của những người bán yếm lụa có ghi hàng chữ nho « Đồng lạc quyển yếm thị » (Ngôi đình của chợ bán yếm lụa ) tức là xưa kia Hàng Đào là nơi sản xuất và bán yếm lụa và bà Nguyễn thị Riệu Duyên là tổ sư nghề làm cổ yếm được thờ ở phố hàng Đào (Nguyễn Thế Long, Đình và đền Hà Nội, NXB Văn Hóa-Thông Tin, Hà Nội 2005, tr. 28).

 

*

 

(Trích từ phần hai của bài “Giao tiếp văn hóa giữa Đông Nam Á và Viễn Đông”).

 

Nguồn: https://hungviet-vhr.org/2020/12/16/agricultural-products-and-food-culture-in-viet-nam/

 

 

Lạp Chúc Nguyễn Huy

(Cựu Giảng sư Đại Học Văn Khoa Sài Gòn)

  

 

Trần Văn Giang (ghi lại)

.

Áo yếm – Nguyễn Huy

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *