Chó Tây Chó Ta

.

 

*

 

Trong những con vật được nuôi trong nhà thì con chó được loài người thuần hóa sớm nhất (từ loài sói xám) và được nhắc đến nhiều trong văn học từ cổ chí kim, từ đông sang tây với những từ ngữ ngọt ngào như: trung thành, tình nghĩa, khôn ngoan, thân thiện… Nhưng không hiểu tại sao người Việt mình khi giận hờn nhau thường đem con chó ra chửi: “Đồ chó!” “Cái mặt chó!” “Đồ chó đẻ!”…

 

Lúc bực bội những chuyện ngoài đường, về nhà con chó chạy ra ngoắc đuôi mừng rỡ, ông chủ lại cho nó một đá cho hả giận… mặc dù nó chẳng có tội tình gì.  Nó cúp đuôi, tiu nghỉu chạy trốn và chẳng hiểu tại sao (?). Trong nhà khi vợ chồng cãi nhau, chó là con vật đầu tiên bị mang tai họa. Vì không biết làm sao cho bớt ấm ức, bèn đá con chó, chửi con mèo… Bởi thế, mới có thành ngữ “mắng chó chửi mèo” hay “chỉ chó mắng mèo” là vậy. Thật khốn khổ cho cuộc đời con chó!

 

Trời sinh ra con chó có được cái tính bẩm sinh: Thính tai, thính mũi, khôn ngoan, thân thiện, gắn bó, thủy chung với chủ. Người ta nuôi chó coi như một bạn đồng hành giúp ích được nhiều việc như: giữ nhà, săn bắt, dẫn dắt người mù… Ở vùng Bắc Cực người ta còn bắt chó kéo xe. Ngày nay, một số người nuôi con chó nhỏ để làm cảnh, coi như thú cưng trong nhà vì nó luôn luôn quấn quít, thân thiện, trung thành giúp họ bớt cô đơn và có được những giây phút mơn trớn, vuốt ve, dịu dàng làm bớt đi những căng thẳng của đời sống.

 

Mỗi con chó sinh ra đều có một phần số: “Chó tây” có đời sống khác với “Chó ta.”  Ngay cả “Chó ta” được nuôi ở miền Bắc Việt Nam khác con “Chó ta” nuôi ở miền Nam (?).

 

Đọc những truyện ngắn của nhà văn Nam Cao mô tả “Cậu Vàng” của Lão Hạc, “Cái Chết Của Con Mực” hay Kim Lân kể về “Con Chó Xấu Xí,” ta cảm thấy số phận con “Chó ta” sao mà thê lương não lòng quá; dù hết lòng trung thành với chủ, cuối cùng vẫn bị bạc đãi – người ta đem chó bán đi hay giết thịt. Thật khốn nạn cho cuộc đời con “Chó ta.”

 

Trong văn học cổ Việt Nam còn lưu lại bằng chữ Nôm câu chuyện “Lục Súc Tranh Công” (Trâu, chó, ngựa, dê, gà, và lợn) được viết theo thể “nói lối.” Con chó tranh công với trâu và kể lể với chủ: 

 

“Trời đã sinh các hữu kỳ tài/ Lớn việc nặng, bé thì việc nhẹ… Vốn như đây ốm yếu chân tay/ Cũng hết sức gia trung xem xét … Kẻ đầu kia, người việc nọ/ Đứa coi ngoài, có đứa giữ trong/ Đêm năm canh con mắt như chong/ Đứa đạo tặc, nép oai khủng động/ Ngày sáu khắc, lỗ tai bằng trống/Đứa gian tham thấy bóng cũng kinh… Lại đến ngày kỵ lạp tiên sinh/ Cũng ra sức săn chồn, đuổi sóc/ Bao quản chui gai, lước góc/ Chi này múa mỏ, lòn hang/ Anh trâu sao chẳng biết thương/ Nỡ lại ra lời sanh nạnh… Ăn thì cơm thừa, canh cặn, môn sượng, khoai sùng/ Tới bữa ăn chẳng luận ít nhiều/ Có cũng rằng, không cũng chớ… Vốn như đây gia tài ủy ký/ Mà chủ không tốn kém đồng nào/ Nên không muông coi trước, giữ sau/ Thì của ấy về tay kẻ trộm…”

 

Con “Chó ta” bị hắt hủi cho nên nó phải kể lể như trên. Con “Chó tây” cũng đi vào văn học Âu-Mỹ từ xa xưa, nhưng lại được ca ngợi và tôn vinh qua câu chuyện rất cảm động và thâm thúy sau đây:

 

Năm 1870, Luật sư George Graham West (1830 – 1904) đã đọc một bài “bào chữa” chỉ có 375 chữ ca ngợi con chó trong vụ kiện của người thợ săn kiện người chăn cừu đã giết con chó của mình. Bài bào chữa có tên “A Tribute to The Dog” đã thuyết phục toàn thể Bồi Thẩm Đoàn và thân chủ ông đã thắng kiện. Sau đó, bài bào chữa này được lưu truyền trong văn học Mỹ và được tờ New York Times bình chọn là bài diễn văn hay nhất thế kỷ. Ngày nay, trước tòa án Warrensburg, tiểu bang Missouri người ta dựng tượng đài con chó “Old Drum” với bài “A Tribute to the Dog” để ghi nhớ sự kiện lịch sử này. George Graham West nổi tiếng trong lịch sử Mỹ nhờ bài diễn văn này.

 

Đọc một đoạn trong bài diễn văn (đã dịch ra Việt ngữ) làm ta suy ngẫm và ngậm ngùi:

 

“…. Trên thế gian vụ lợi ích kỷ này, con người chỉ có thể có được một người bạn vô tư không điều kiện, một người bạn không bao giờ rời bỏ ta, không bao giờ vô ơn bạc nghĩa, không bao giờ phản bội, đó là con chó của ta.

 

* Con chó của ta luôn ở bên cạnh ta, dù ta giàu sang hay ta nghèo khó, dù ta khỏe mạnh hay ta ốm đau bệnh tật. Nó ngủ dưới nền đất lạnh, bất chấp giá rét mùa đông hay bão tuyết, miễn sao được ở gần ta. Nó vẫn hôn vào bàn tay ta dù ta không còn  thức ăn gì cho nó. Nó liếm vào những vết thương và những chỗ ta đau đớn khi va chạm với sự tàn bạo của cuộc đời. Nó canh giấc ngủ cho ta khi ta là kẻ khốn cùng cũng giống như khi ta là một ông hoàng.

 

* Khi tất cả bạn bè đều rời xa ta, riêng con chó thì ở lại.

 

* Khi ta mất hết của cải, thân bại danh liệt, thì tình yêu thủy chung của con chó đối với ta vẫn ngời sáng như ánh mặt trời xuyên thấu chín tầng mây.

 

* Nếu chẳng may ta bị cuộc đời ruồng bỏ, rơi vào cảnh không bạn bè không nhà cửa, thì đối với con chó trung thành, không có một đặc ân nào cao cả hơn là được ở bên cạnh ta, để bảo vệ ta chống lại những hiểm nguy, chống lại kẻ thù.

 

* Và đến lúc cuộc đời ta kết thúc, thần chết rước ta đi và thân xác ta nằm dưới lòng đất lạnh, khi người thân bạn bè đưa tiễn đã quay về để tiếp tục bận rộn với cuộc sống của họ, thì con chó cao quý vẫn còn nằm bên nấm mồ ta, đầu gục xuống giữa hai chân, đôi mắt đau buồn nhưng vẫn mở to cảnh giác, trung thành và chân thực ngay cả khi ta đã chết.”

 

Đọc những truyện kể về con chó, tôi nhớ đến “con Đốm” của gia đình tôi.

 

Năm đó bà chị dâu của tôi có bầu trên năm tháng, anh tôi xin một con chó con của nhà ông Lý Bản về nuôi và gọi nó là “con cún.”  Nó trông mũm mĩm rất dễ thương, nhưng lại làm nhiệm vụ “dọn bãi” cho đứa con sơ sinh của anh chị.  Mỗi lần bà chị dâu gọi: “Cún… cún… chậc…chậc…” Nó lăng xăng chạy đến ngoắc đuôi lia lịa “dọn bãi” một cách cần mẫn, tận tình.  Tôi thấy nó hèn hạ và dơ dáy! Cho nên mỗi lần nó đến gần, tôi cho nó một đá và đuổi đi… Nhiều lần như thế, nó biết phận, đứng xa xa, nhìn tôi với ánh mắt lấm lét, nhưng cái đuôi vẫn ve vẩy hững hờ. Hình như nó mong đợi tiếng tôi gọi nó. Nhưng chưa bao giờ! Rồi nó lặng lẽ bỏ đi…

 

Khi đứa con của bà chị dâu lên hai, con “cún” không còn làm nhiệm vụ “dọn bãi” nữa. Lúc này thân hình nó tròn trịa, cao to, hai tai vểnh lên, hai đốm trắng trên mi mắt rõ nét, trông rất ngộ. Anh tôi đặt tên cho nó “con Đốm” và bắt đầu huấn luyện cho nó săn chuột, canh giữ chuồng gà, không để chồn, cáo vào bắt gà ban đêm. Ban ngày, khi trải lúa ra sân phơi, “con Đốm” nằm đuổi bọn gà đến ăn lúa. Có mặt “con Đốm,” bọn gà không dám bén mảng. Khi nó lang thang đâu đó mà anh tôi gọi: “Đốm… ô… ô! Đốm… ô…” là nó chạy đến ngoắt đuôi chờ lịnh. Nó hiểu và làm được những việc anh tôi sai bảo.

 

Anh tôi thương và quý “con Đốm,” nhưng tôi vẫn còn mặc cảm với nó. Nhưng có một lần con Đốm làm tôi cảm động và thích thú. Chuyện thế này:

 

Thằng Thương ở trong xóm, nuôi một con chó Vện.  Con chó này nổi tiếng khôn ngoan và hung dữ.  Thấy ai lạ là nó nhe răng gầm gừ, như muốn xông đến cắn người ta, nhưng khi thằng Thương tỏ vẻ niềm nỡ với khách thì nó liền tỏ ra thân thiện, ngoắt đuôi, mừng! Thằng Thương hãnh diện về con Vện của mình, đi đâu cũng dẫn con Vện theo cùng. Một hôm tôi gặp thằng Thương ở đầu ngõ, con Vện vừa trông thấy tôi, nó gầm gừ… Con Đốm từ trong nhà chạy ra đứng cạnh tôi, sủa vang và nghênh con Vện. Thương là thằng ngổ ngáo, chẳng những nó không la con Vện mà còn “sịt… sịt…” chỉ tay cho con Vện xông vào con Đốm. Hai con chó cắn nhau dữ dội. Thằng Thương vỗ tay reo…

 

Nhưng sau một hồi cắn đấu kịch liệt, con Vện của thằng Thương cúp đuôi bỏ chạy. Thằng Thương tiu nghỉu bỏ đi. Con Đốm chạy lại bên tôi, tôi cúi xuống vuốt ve nó; lông nó ướt đẫm, trên mũi và chân trước bị cắn chảy máu. Tôi vào nhà giã củ nghệ, kêu nó lại, lấy nghệ đắp lên vết thương, nó ngoan ngoãn nằm yên. Từ đó tôi thương con Đốm, đi đâu tôi cũng cho nó đi theo. Và cũng từ đây con Đốm là bạn thân thiết nhất của tôi thời thơ ấu ở làng quê Vĩnh Phú.

 

Đến một ngày có lệnh diệt chó để ngừa bệnh “chó dại.” Hằng ngày có một toán đi diệt chó, họ rảo quanh làng rình rập, bắt chó… Họ mang theo gậy, búa, và dây thòng lọng. Anh tôi thương con Đốm, anh tỉ tê với nó thế nào mà nó hiểu.  Mỗi khi nghe tiếng người, nó chạy vào gầm giường trốn biệt. Nó cũng không theo tôi ra khỏi nhà. Nó thoát nạn một thời gian. Nhưng sau đó Ủy Ban Hành Chánh xã ra thông báo:

 

“Nhà nào còn lén lút nuôi chó mà không khai báo, coi như có hành vi phản động (?)”

 

Hồi đó, ở trong vùng Việt Minh kiểm soát, ai cũng sợ bị ghép vào thành phần phản động hay Việt gian.  Nếu bị ghép vào hai thành phần này, sớm muộn gì cũng bị cho đi “mò tôm.” Bởi vậy, anh tôi đành chỉ chỗ con Đốm trốn cho toán diệt chó. Sáng hôm ấy anh tôi đem đến cho con Đốm đĩa cơm có chan nước thịt và mấy lát thịt heo. Anh tôi vuốt ve nó, nhìn nó ăn, anh tôi khóc! Rồi anh ra khỏi nhà trước khi toán diệt chó đến. Anh tôi không muốn thấy cảnh đau lòng…

 

Khi toán diệt chó đến, con Đốm chạy trốn dưới gẩm giường, họ xông ngay vào chỗ nó đang trốn. Nó hết đường tẩu thoát… Lúc ấy ở nhà chỉ có mình tôi, tôi nhìn họ hung bạo như quân cướp. Tôi sợ họ như con Đốm đang sợ.  Nó co dúm lại, run run, không kháng cự. Họ lấy cây gậy dài đè vào cổ, một tên khác đưa dây thòng lọng vào cổ, kéo nó ra… Hai chân trước con Đốm cố bám vào sàn nhà, miệng kêu ẳng ẳng, mắt nhìn tôi như cầu cứu… Tên bắt chó chẳng chút xót thương, hắn lôi xệch con Đốm ra cửa. Khi cái dây thòng lọng siết chặt cổ, lưỡi con Đốm thè ra, không còn kêu được nữa, nhưng mắt nó hướng về phía tôi, ướt đẫm… Nước mắt tôi cứ tuôn ra, tôi khóc nức nở… cho đến lúc bọn họ lôi con Đốm ra khỏi ngõ, tôi kêu lên “Đốm ơi!” trong tiếng khóc nghẹn ngào.

 

Vào thời đó, ở làng tôi chưa biết ăn thịt chó. Họ giết con Đốm và đem chôn nó bằng cách nào, tôi không được chứng kiến, nhưng cách họ bắt con Đớm lôi đi quá tàn nhẫn. Hình ảnh đó ám ảnh tôi trong một thời gian dài. Sau này nghe anh tôi kể là họ ra lịnh diệt chó để ngừa bệnh dại chỉ là cái cớ, mục đích chính là để ban đêm cán bộ rình rập các nhà địa chủ, phú nông nghe ngóng tin tức, không bị lộ (lúc đó chính sách cải cách ruộng đất bắt đầu ló dạng ở Liên Khu 5).

 

Năm 1954, Hiệp Định Genève chia đôi đất nước, Chính quyền Quốc Gia tiếp quản Liên Khu 5. Bấy giờ tôi đã qua thời thơ ấu, tôi rời làng quê ra tỉnh theo việc học hành. Chuyện tiếc thương con Đớm rồi cũng phôi pha theo năm tháng.

 

Tiếp theo, đời tôi nổi trôi theo vận nước với bao thăng trầm, khổ nhục, vì cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn. Cho đến một ngày, thời cuộc đẩy đưa, tôi được định cư trên nước Mỹ.

 

Từ đây, cuộc đời đưa tôi đi vào ngã rẽ mới. Những ngày đầu tiên sống trên đất Mỹ, với tôi không biết bao nhiêu điều lạ lẫm; phải tìm hiểu, học hỏi mới quen dần. Chuyện “con chó ở xứ Mỹ” là một trong những câu chuyện được nghe người ta ví von nhiều nhất:

 

“Xã hội Mỹ xếp hạng đàn bà số một, thứ hai là chó mèo, đàn ông đứng hàng thứ ba.”

 

Chớ có quen tật bạo hành phụ nữ; ngược đãi, hành hạ chó mèo. Loạng quạng phạm vào những điều căn bản đó, cảnh sát còng tay đưa ngay về bót và phải trái hạ hồi phân giải. Học được điều đó, nên biết thân phận của mình, tôi không dám to tiếng với vợ, tránh xa chó mèo để khỏi mang họa vào thân.

 

Nhưng càng sống lâu trên đất Mỹ, tôi thấy thuơng cho thân phận cho con “Chó ta.” Vì thấy con “Chó Mỹ” sướng quá! Con “Chó ta” thì “ăn cơm thừa, canh cặn, môn sượng, khoai sùng… Tới bữa ăn chẳng luận ít nhiều.  Có cũng rằng, không cũng chớ…”  Còn con “Chó Mỹ” được luật pháp bảo vệ. Theo “Texas Penal Code # 420” nêu rõ là: 

 

“Người nuôi súc vật trong nhà phải có bổn phận cho ăn, cho uống, cho chỗ ở. Thiếu một trong các điều nêu trên và cố ý hành hạ, bỏ bê, giết hại chó mèo sẽ bị bỏ tù một năm và số tiền phạt có thể lên tới bốn chục ngàn dollar.”

 

Thỉnh thoảng báo chí Mỹ đưa tin về những vụ như ông Dennis, ở tiểu bang Tennessee bị bỏ tù 9 tháng vì bỏ đói, bỏ lạnh và xích con chó ngoài vườn cho đến chết. Những tin như thế có làm tôi xúc động, nhưng rồi cũng chỉ thoáng qua vì lúc đó còn nhiều công việc khác phải lo toan, chuyện chó mèo coi như chuyện phù phiếm.

 

Đến một hôm, tôi nghe nhiều người “kháo” nhau về chuyện chó – đây là chuyện “chó Mỹ.” Nguồn tin loan truyền rằng:

 

“Một người Việt Nam tỵ nạn, sang Mỹ hơn một năm, chỉ làm công việc dẫn chó đi chơi, đi ị, hốt cứt chó… mà kiếm được tiền mua nhà (?)” Ở cái xứ Hiệp Chúng Quốc này, có những chuyện mới nghe rất khó tin, nhưng rồi có thật…

 

 

Rồi ngày tháng trôi qua, tôi đến tuổi về hưu, các bạn già đồng hương rủ nhau họp mặt, mừng vui kể lại những thăng trầm trong cuộc sống đồng thời “chuyện chó” được nhắc đến. Một ông bạn kể về con chó của đứa cháu ngoại. Ông bảo:

 

Con chó Mỹ, nó sung sướng đến độ tôi phải ganh. Này nhé: nó được đưa đi tỉa lông, cắt móng, khám bịnh định kỷ; ăn toàn đồ “organic,” ngủ thì chiếu hoa nệm gấm… Khi con cháu đi du lịch xa, nó gởi chó vào “Khách sạn chó” (Dog-Kernel / a shelter for a dog); chó bị bịnh thì vào “Nhà thương chó” (Animal Hospital) có Bác sĩ thú y chăm sóc. Tính ra tiền chi phí nuôi con chó còn nhiều hơn tiền già của tôi.

 

Rồi ông ta kết luận:

 

Sau khi chết, nếu có sự đầu thai, tôi sẽ xin đầu thai làm con chó (!?)

 

Một ông già ngồi cạnh, cười khẩy và nhắc nhở:

 

Ông phải cẩn thận.  Khi đầu thai nhớ ghi vào sổ là xin làm “Chó tây” ở trên nước Mỹ mới được… Chứ lạng quạng để lọt vào danh sách “Chó ta” mà ở Việt Nam thì bỏ mẹ cuộc đời đó!

 

 

Lê Đức Luận

Tháng 2-2023

 

 

Trần Văn Giang (ghi lại)

 

Chó Tây Chó Ta – Lê Đức Luận

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *