Nhạc Vàng

.

 

Lời mở đầu:

 

Nhạc Vàng, một gia tài văn hóa vĩnh cửu của người Việt, được phát minh và gìn giữ, là công lao lớn của người Việt Miền Nam dưới chính thể VNCH.

 

Sau một thời bị xáo trộn bởi bọn việt cộng, một căn bã trong loài người,  những giá trị đích thực của con người, dù cho bị vùi dập, sẽ phi nước đại trở về.

 

Không phải chỉ có âm nhạc. Những giá trị văn hóa xã hội khác, như sự tự do, quyền tư hữu, quyền được mưu cầu hạnh phúc… cũng sẽ trở về.

 

Nhưng điều ấy có nghĩa là gì?  Nó có nghĩa là bọn cộng sản Tàu-Việt-Bắc Hàn, ba con quái thú còn đang hoành hành tại vài vùng đất Á Châu chậm tiến, rồi sẽ sớm biến mất, hay biến dạng.

 

Đó chẳng phải là điều mà nhân loại và nhất là con dân Việt đang trông đợi đó sao.

 

Sự trở về, sống dậy của nhạc vàng – golden music – là con chim én báo hiệu mùa xuân dân tộc ta đã gần kề. Tôi vui mừng vì sự quan sát và suy nghiệm của chúng ta, như một “logic” toán học, đã báo trước ngày đền tội của con quái vật Cộng sản.

 

Thợ thơ cộng sản kiêm văn nô Tố Hữu đã viết những lời thơ kích động chúng nó nổi dậy, đại khái:

 

                Gió hôm nay là bão nổi ngày mai

                Trong chớp giật, ắt có ngày sét đánh!

 

Hôm nay “bão” nhạc vàng đã thổi mạnh, lưỡi tầm sét của Thiên Lôi sẽ bổ xuông kết liễu cuộc sống bạo tàn của cái bọn giả hình, nhân danh bần cố nông chỉ để xiết họng bần cố nông.

 

 

BXC

 

*

 

Nhạc vàng: Bên thắng cuộc

 

 

Quán nửa khuya đèn mờ theo hơi khói…

 

Câu hát đầu trong bài “Quán nửa khuya”của Tuấn Khanh & Hoài Linh, sáng tác năm 1961.

 

Đuốc lồ ô bập bùng bên ánh lửa… 

 

Câu hát đầu trong bài “Tiếng chày trên sóc Bom-Bo” của Xuân Hồng, ra đời năm 1966.

 

Người nghe nhạc tinh ý dễ nhận ra hai câu nhạc giống nhau trong hai bài nhạc cùng hợp âm Mi thứ. Nếu có khác, bài “Quán nửa khuya” ghi thể điệu boléro, bài “Tiếng chày trên sóc Bom-Bo” ghi “Nhịp nhàng, rộn rã.”

 

Nhạc sĩ Tuấn Khanh, khi nhắc đến sự giống nhau của hai câu nhạc này, chỉ mỉm cười, lắc lắc đầu. Cái lắc lắc đầu, mỉm cười của ông cho thấy, “nhạc đỏ” có khuynh hướng theo chân “nhạc vàng boléro” từ nhiều năm trước chứ không phải đợi tới bây giờ.

 

 

Nhạc đỏ, buồn ơi chào mi!

 

Cũng không phải đợi tới bây giờ mà nhiều người yêu nhạc ở miền Bắc đã biết yêu, biết tìm đến “nhạc vàng”miền Nam từ lâu lắm. Câu chuyện về Lộc “vàng,” chàng trai Hà Nội thời chiến vì trót yêu nhạc vàng mà phải trả giá đến gần 10 năm tù tội. Điều khá chua xót là ngày ra tù, trong lúc lang thang trên phố, tiếng nhạc vọng ra từ những quán xá bên đường mà anh nghe được lại chính là những bản “nhạc vàng” đồi trụy, phản động đã đưa anh vào ngục tù, chôn vùi cả một thời tuổi trẻ. Câu chuyện Lộc “vàng”là câu chuyện của người dám sống và chết cho nhạc vàng, nhất định chỉ yêu nhạc vàng chứ không yêu nhạc đỏ.

 

“Nhạc vàng,” cái “từ” này ở đâu ra và có nghĩa gì? Trước năm 1975, nhạc Việt không có màu mè xanh, đỏ, tím, vàng chi cả. Danh từ “nhạc vàng”cũng ít được sử dụng. Nhiều lắm chỉ có ban Nhạc Vàng của Đài truyền hình Sài Gòn do nhạc Phó Quốc Lân phụ trách. “Nhạc vàng” trong chương trình ca nhạc này chỉ mang ý nghĩa những bài nhạc hay, được tuyển chọn cho chương trình này. Trong khi đó, miền Bắc gọi chung nhạc Việt miền Nam là “nhạc vàng,” được dán nhãn chính trị là nhạc “ru ngủ,” “đồi trụy” và “phản động.”

 

Trong khi đó, “nhạc đỏ” chính thức xâm nhập miền Nam Việt Nam kể từ ngày 30 tháng Tư năm 1975. Đâu đâu cũng trông thấy cờ xí ngờm ngợp và những biểu ngữ đỏ chói giăng đầy đường phố, đâu đâu cũng nghe thấy vang vang những bài hát “cách mạng” nhịp quân hành rầm rập, trong lúc loa phóng thanh liên tục mở hết cỡ phát đi những khẩu hiệu ròn rã về “chiến công vĩ đại,” “cuộc kháng chiến thần thánh,” “đỉnh cao chói lọi trong lịch sử vẻ vang của dân tộc…”

 

Ít năm sau đó, nhạc đỏ vẫn liên tục tra tấn đôi tai người dân tội tình từ những chiếc loa phường treo máng trên những cột điện dây nhợ lằng nhằng. Vẫn là điệu nhạc rất “đặc trưng,” nếu không rầm rập như bị ma đuổi thì cũng ồm ồm hay riu ríu, lơ lớ tiếng Việt, thoạt mới nghe tưởng nhạc cách mạng… Tàu, đại để “Cô gái vót chông,” “Cô gái mở đường,” “Cô gái Sài Gòn đi tải đạn,” “Chào em cô gái Lam Hồng,” “Tiếng hát giữa rừng Pác Bó,” “Trường Sơn đông, Trường Sơn tây,” “Gặp nhau trên đỉnh Trường Sơn”…

 

 

Hát mãi, nghe mãi kiểu nhạc này thì cũng… chán, những tay chơi nhạc trong “phong trào văn nghệ quần chúng” bèn ngồi lại với nhau, bàn bạc và lập ra những nhóm đàn hát ở phường, xã, các xí nghiệp… gọi tên là “Nhóm ca khúc chính trị” theo mô hình phổ biến của các nhóm nhạc nhẹ ở Liên Xô và Đông Âu. Các tiết mục, bài bản thường là tự sáng tác, tự trình diễn, gọi là “tự biên, tự diễn.” Có thể kể ra ít “nhóm ca khúc chính trị” quen tên như Mây Trắng, Rạng Đông, Đại Dương, Hải Âu, Phù Sa, Bách Việt, Dây Leo Xanh… và một số ca khúc được quần chúng đón nhận, yêu thích thời ấy như “Những lời em hát” (Từ Huy), “Ơi cuộc sống mến thương”,  “Này người yêu nhỏ xinh” (Nguyễn Ngọc Thiện), “Em như tia nắng mặt trời” (Nguyễn Đức Trung)…

 

Các “nhóm ca khúc chính trị” của thập niên 1980’s ấy là gạch nối dẫn đến sự nở rộ của các tụ điểm ca nhạc thu hút lượng người xem ngày càng đông. Có thể kể tên những tụ điểm quen thuộc ở Sài Gòn như sân khấu 126, Lan Anh, Trống Đồng, Đầm Sen, nhà hát Thành Phố, nhà hát Hòa Bình… 

 

 

Từ các tụ điểm, phòng trà này, nhiều ca khúc dễ nghe và có giai điệu rất gần với “nhạc vàng” của miền Nam lần lượt ra đời, như “Ngõ vắng xôn xao” (Trần Quang Huy), “Nha Trang mùa thu lại về” (Văn Ký), “Hoa sữa” (Hồng Đăng), “Em ơi, Hà Nội phố” (Phú Quang), “Hà Nội mùa vắng những cơn mưa” (Trương Quý Hải & Bùi Thanh Tuấn)… Ngay đến cách đặt tựa bài hát cũng mang phong cách “nhạc vàng”, như “Con đường có lá me bay” (Hoàng Hiệp & Diệp Minh Tuyền), “Lời tỏ tình của mùa xuân”, “Này người yêu nhỏ xinh” (Nguyễn Ngọc Thiện), “Giọt nắng bên thềm” (Thanh Tùng), “Thơ tình cuối mùa thu” (Phan Huỳnh Điểu & Xuân Quỳnh), “Ở hai đầu nỗi nhớ” (Phan Huỳnh Điểu & Trần Đình Chính) , “Thành phố, tình yêu và nỗi nhớ” (Phạm Minh Tuấn & Nguyễn Nhật Ánh)… 

 

 

Và người ta bắt đầu được nghe những bài hát về tình yêu đôi lứa với điệu nhạc lời ca tình tứ, lãng mạn, được kể là “hàng hiếm” thời bấy giờ. 

 

 

Con đường có lá me bay

Chiều chiều ta lại cầm tay nhau về… 

(“Con đường có lá me bay” Hoàng Hiệp & Diệp Minh Tuyền)

 

Những ngày không gặp nhau 

Biển bạc đầu thương nhớ 

Những ngày không gặp nhau 

Lòng thuyền đau rạn vỡ 

Nếu từ giã thuyền rồi 

biển chỉ còn sóng vỗ

Nếu phải cách xa em 

anh chỉ còn bão tố… 

(“Thuyền và biển” Phan Huỳnh Điểu & Xuân Quỳnh)

 

Một dạng “nhạc vàng” mới đã đi vào quần chúng yêu nhạc từ lúc nào. 

 

Nhạc vàng, thời hoàng kim của Boléro

 

Trên sân khấu các tụ điểm văn nghệ ấy thỉnh thoảng có sự góp mặt của các ca sĩ miền Nam được yêu chuộng một thời, là những giọng hát luôn ăn khách, thu hút lượng khán giả đông đảo, như Duy Khánh hát “Tự nguyện” (Trương Quốc Khánh), Nhật Trường hát “Hương thầm” (Vũ Hoàng & Phan Thị Thanh Nhàn), Anh Khoa hát “Trị An âm vang mùa xuân” (Tôn Thất Lập)… Cũng phải kể thêm các giọng hát quen thuộc còn ở lại trong nước, như Lệ Thu hát “Hà Nội niềm tin và hy vọng” (Phan Nhân), Lan Ngọc hát “Con đường có lá me bay” (Hoàng Hiệp & Diệp Minh Tuyền), Họa Mi hát “Quảng Bình quê ta ơi!” (Hoàng Vân)… nghe được qua những băng nhạc, đài phát thanh, phát hình. 

 

 

Thường thì các ca sĩ này chọn hát những bài có nội dung “vô thưởng vô phạt” và nhạc điệu gần gần với nhạc miền Nam. 

 

 

Cứ thế, cùng với những lần xét duyệt nhỏ giọt cho phép phổ biến những bài nhạc của miền Nam trước năm 1975, nhạc vàng lần lần đi vào sinh hoạt ca nhạc trong nước, lần lần đẩy lùi nhạc đỏ ra khỏi các sân khấu trình diễn. Nhạc đỏ, nếu không biến mất thì cũng mờ nhạt, họa hoằn lắm được các “nghệ sĩ nhân dân ưu tú” biểu diễn trong những hoạt động chào mừng các ngày lễ lớn và sự kiện lịch sử của nhà nước cộng sản Việt Nam.

 

 

Nhạc vàng, đến một lúc nào đó, không đợi nhà cầm quyền cho phép, trình diễn vô tư và tràn lan trên các sân khấu ca nhạc ở cả hai miền Nam Bắc. 

 

 

Những cố gắng để cấm đoán, ngăn chận sự xâm nhập của nhạc vàng miền Nam chỉ là những cố gắng vô ích và tuyệt vọng. Lạ một điều, bài nhạc nào càng bị cấm đoán thì càng được người yêu nhạc tìm nghe. Người dân tự ý lựa chọn những món ăn tinh thần nào mình yêu thích, hợp khẩu vị. 

 

 

Không ngạc nhiên chút nào khi mới đây, vào tháng 2/2019, lần đầu tiên kể từ ngày “giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước,” nhà nước cộng sản ra nghị định chính thức “bỏ quy định cấp phép ca khúc trước 1975.” Nghị định này được Cục Nghệ thuật Biểu diễn giải thích như sau:

 

“Bỏ cấp phép cho ca khúc nghĩa là ca khúc sáng tác ở thời gian, không gian nào cũng bình đẳng như nhau, không có khoanh vùng đặc biệt để cấp phép. Trước hay sau 1975 đều như nhau.”

 

 

Lời giải thích “có lý, có tình” này (tiếc rằng chỉ đến sau 44 năm) chỉ như hợp thức hóa một sự đã rồi.

 

Nghị định mở rộng cửa chào đón âm nhạc miền Nam trước năm 1975, cùng với sự tán thưởng nồng nhiệt của giới yêu nhạc trong nước dành cho các ca sĩ tên tuổi miền Nam từ hải ngoại về nước trình diễn, đánh dấu sự ra đi không hẹn ngày về của dòng “nhạc cách mạng” hay “nhạc đỏ,” cho dù có là “nhạc đỏ trữ tình.”

 

Đến đây không thể không nói tới sự lên ngôi của “dòng nhạc trữ tình Boléro,” nổi lên như một hiện tượng lạ, tạo cơn lốc cuồng nhiệt, thống lĩnh mọi sinh hoạt văn hóa văn nghệ trong nước. Những bài hát thể điệu Boléro xập xình, tiết tấu chậm rãi, giai điệu luyến láy mùi mẫn, nhịp điệu kể lể, tự tình nỉ non, đi cùng lời ca dễ hiểu, vừa dễ hát dễ nghe lại dễ đệm đàn với nhạc cụ thông dụng là chiếc “guitar” thùng.

 

Nhạc Boléro, vốn được xem là thể loại nhạc bình dân, đại chúng ở miền Nam, như thế có đến hai đời sống, cách nhau đến gần nửa thế kỷ.

 

Nhiều bài Boléro mà người miền Nam xếp vào dòng nhạc hoài niệm thì nay lại được người miền Bắc và cả nước “phấn khởi hồ hởi” vực dậy, nâng niu, đắm đuối, gọi là “tình khúc boléro,” “tuyệt phẩm boléro.” Nhiều ca sĩ “chuyên trị” boléro được phong tặng những danh hiệu nổi đình nổi đám như “Nữ hoàng boléro” (những Lệ Quyên, Bảo Yến, Thanh Tuyền, Giao Linh, Hương Lan…), “Ông hoàng boléro” (những Chế Linh, Tuấn Vũ, Ngọc Sơn…), “Ngọc nữ boléro” (Phương Anh), “Thần tượng boléro” và cả những “Thần đồng boléro...” Nhạc vàng boléro đã hoàn toàn chinh phục giới yêu nhạc trong nước. Những thần tượng boléro đã mê hoặc, hớp hồn bao nhiêu là tín đồ… boléro.

 

Đó là một loại âm nhạc có đẳng cấp,” ca sĩ Ánh Tuyết ở trong nước khẳng định khi nói về những “tình khúc boléro.” Cô nói thêm, “Âm nhạc không có chuyện sang, sến mà chỉ có hay hoặc dở.”

 

“Ông hoàng boléro” Chế Linh tiếp lời, “Nếu âm nhạc là lời nói cất lên từ trái tim thì Boléro chính là tiếng nói tình cảm nhất. Nó chan chứa, không bóng bẩy, đi thẳng vào lòng người nghe.”

 

Chung cuộc, nhạc vàng của người miền Nam, với thời hoàng kim của boléro, đã giải phóng người dân miền Bắc thoát khỏi sự thống trị của nhạc đỏ trong sinh hoạt văn hóa, văn nghệ trong suốt bao nhiêu năm, để giành quyền tự do suy nghĩ, bày tỏ cảm xúc, tâm tư tình cảm. Điều này thật ý nghĩa, vì đấy chính là quyền tự do tư tưởng, là một trong những quyền tự do căn bản nhất của con người.

 

Nếu quả “Âm nhạc có thể làm thay đổi thế giới vì nó thay đổi được con người” (Music can change the world because it can change people. – Bono) thì chúng ta có lý do để tin rằng, sự thay đổi về khuynh hướng và quan niệm thẩm mỹ trong âm nhạc, nghệ thuật của người dân Việt sẽ ít nhiều tác động và dẫn đến những đổi thay toàn diện về văn hóa, xã hội, chính trị cho đất nước mình. Sự thắng thế của nhạc vàng miền Nam, hẳn là “xu thế tất yếu của thời đại,” như cách nói của nhà nước cộng sản.

 

Không còn nghi ngờ gì nữa, trong cuộc đọ sức với nhạc đỏ, nhạc vàng đã là “Bên thắng cuộc.”

 

Lê Hữu

*

 

VÌ SAO NHẠC VÀNG LẠI ĐƯỢC YÊU THÍCH?

.

 

 

Nhạc Vàng là tên thường gọi của thể loại nhạc được sáng tác và trình diễn dưới thời Việt Nam Cộng hòa. Lâu nay, nhiều người đã bàn về giá trị nghệ thuật và sức sống của nhạc vàng thời Việt Nam Cộng Hòa (VNCH). Đã có rất nhiều người chỉ ra lý do Nhạc vàng nhanh chóng tiến ra Bắc, trở thành một món ăn tinh thần không thể thiếu của các tầng lớp nhân dân ở Miền Bắc, đồng thời có sức sống rất mãnh liệt tại hải ngoại.

 

Theo tôi, Nhạc vàng được yêu thích và có sức sống ấy là do các nguyên nhân sau đây:

 

 

  1. Nhạc vàng có ca từ đề cập đến cái Buồn.

 

Bất cứ nền văn học nào, khi đề cập đến số phận con người, đến cái Buồn, cũng sẽ được nhớ mãi. Âm hưởng buồn (có khi bi thương, bi tráng, bi hùng, có khi chút thoáng) chiếm phần lớn trong nhạc vàng VNCH. Cái Buồn luôn chạm đến trái tim của mọi người, ở mọi thời điểm và hoàn cảnh.

 

Tình yêu, sự nhớ nhung và niềm đau của các cuộc tình tan vỡ; nỗi nhớ thương người yêu bé nhỏ nơi quê nhà bùng lên trong bước quân hành hay giữa vùng biên thùy trong phiên gác đêm xuân. Ước vọng đoàn tụ dưới mái tranh nghèo khi Tết đến không thành; Người bạn chiến đấu nằm phơi xác sau một lần xuất kích, hay những dải khăn xô của mẹ già và thiếu phụ mất con mất chồng… Tất cả gợi lên những nỗi buồn với nhiều cung bậc khác nhau, chạm đến trái tim của mọi người. Đó là lý do Nhạc vàng VNCH nhanh chóng tìm được sự đồng cảm, sự chia sẻ, sự hô ứng.

 

 

  1. Nhạc vàng VNCH khi hát lên, đều tròn vành rõ chữ, đúng theo truyền thống cổ nhạc Việt Nam.

 

Đây chính là lý do Nhạc vàng ra Bắc, nó như được trở về với cội nguồn Văn hóa Việt, từ những người con xưa “mang gươm đi mở cõi.”

 

Chính vì điểm này, mà nó gần gũi với con người và nó trở thành quen thuộc với bất cứ ai. Giống như Thơ Lục bát (ai cũng có thể làm và có thể làm hay), ai cũng có thể hát nhạc vàng, ai cũng có thể hát đúng và có thể có nhiều người hát hay. Sự lan tỏa và chiếm lĩnh của nhạc vàng sâu rộng như vậy chính là nhờ điểm này.

 

 

Đặc điểm này đem lại các hệ quả là:

 

1- Nhạc vàng quen thuộc mà không xa lạ;

2- Nhạc vàng dễ phổ biến vì ai cũng có thể hát.

 

Đây là một dấu son của di sản Văn Nghệ VNCH: Sản sinh thể loại âm nhạc không bị thất cước với quá khứ cha ông và nằm trong mạch ngầm của văn hóa Việt.

 

  1. Nhạc vàng có ca từ sang trọng và ẩn dụ.

 

Nhạc vàng có ca từ sang trọng là bởi sử dụng nhiều từ Hán Việt, vì từ Hán Việt cô đọng và hàm ẩn nghĩa và giàu sức gợi mà ít phải dùng nhiều chữ. Thí dụ: “…thì gót liễu mong manh, làm sao bước song hành.”  “Thì gót liễu” và “song hành” là những từ rất gợi, để nói đến người con gái bé nhỏ, liễu yếu đào tơ làm sao bước song hành cùng chàng trai nơi bưng biền, chiến địa. Chữ “gót liễu” rất gợi, gợi lên hình ảnh mảnh mai và xinh đẹp của người con gái, đồng thời trong đó cho thấy chàng trai ý thức được mình là trang nam nhi, dấn thân nơi chiến trường và luôn yêu thương người yêu bé bỏng.

 

 

  1. Nhạc vàng VNCH được phối âm phối khí tốt nhất

 

Nhạc vàng VNCH được ưa chuộng và rất thịnh hành trong đời sống âm nhạc đô thị Miền Nam. Thị trường âm nhạc của Nhạc vàng VNCH đem lại lợi nhuận lớn qua phát hành băng đĩa, sự nổ rộ của các phòng trà âm nhạc, các buổi biểu diễn ngoài trời, các sân khấu lớn. Vì vậy, Nhạc vàng VNCH đã được phối âm phối khí với tất cả các phương tiện và dàn nhạc hiện đại nhất lúc đương thời. Sự sang trọng và ẩn dụ của ca từ, những thanh âm da diết của giai điệu, lối hát tròn vành rõ chữ của nghệ sĩ, trên nền phối khí đầy đủ và hiệu quả, tạo cho Nhạc vàng VNCH được hoàn thiện.

 

Tóm lại, Nhạc vàng VNCH là một di sản nghệ thuật nằm trong nguồn mạch của văn hóa dân tộc. Nó được sinh ra từ tâm hồn người nghệ sĩ yêu tiếng Việt và con người. Nhạc vàng đi từ trái tim và chạm đến trái tim. Ca từ sang trọng và mang tính ẩn dụ khiến cho Nhạc vàng VNCH vượt qua những cái hữu hạn cụ thể (không có trong đó ta – địch, không tuyên truyền, xóa nhòa những hữu hạn) để hướng tới sự trường tồn của văn nghệ.

 

Đây cũng là lý do Nhạc vàng có ảnh hưởng càng ngày càng lớn. Và lý do Nhạc vàng VNCH không còn bị cấm đoán là vì “Nhạc Vàng hiện nay ‘không còn là mối đe dọa chính trị’ đối với chính quyền trong nước”, đúng như Ông Vinh Phạm, nghiên cứu sinh Tiến sỹ về Văn học đối chiếu tại Đại học Cornell, nhận định tại hội thảo về nền Cộng hòa và các giá trị Cộng hòa Việt Nam tại Đại học Oregon, Eugene, hôm 15/10.

 

 

Nguyễn Xuân Diện

 

*

 

Trần Văn Giang (st)

.

Nhạc Vàng – Trần Văn Giang (st)

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *