Hậu trường chính trị Việt Nam sau 1975

.

CoMau

 

 

LTS.- “Sau Bức Màn Ðỏ: hậu trường chính trị Việt Nam sau năm 1975” là một trong 3 tác phẩm của nhà văn Hoàng Dung vừa được nhà xuất bản Tiếng Quê Hương ấn hành. Ông dự định ra mắt tác phẩm tại Nam California. Sách của ông có nhiều điều khá mới mẻ được hệ thống hóa mạch lạc. Những dữ kiện và những biến chuyển trong đảng Cộng Sản Việt Nam từ sau 30-4-1975 là những điều đã từng được nói tới rất nhiều. Nhưng thực tế sau những điều mà mọi người từng biết là gì? Ðây là cốt lõi của “Sau Bức Màn Ðỏ.

Bằng óc phân tích, tổng hợp và những nguồn tin riêng chính xác, tác giả Hoàng Dung qua tác phẩm của mình sẽ cung cấp cho độc giả những yếu tố chính xác để phán đoán tình hình Việt Nam. Ngoài ra những dữ kiện được đề cập tới trong tác phẩm củng cố một cách thực tế cho niềm tin rằng vận mạng dân tộc Việt Nam sẽ không mãi mãi tệ hại như hiện tại.

 Trên mục Diễn Ðàn này, với sự thỏa thuận của tác giả, chúng tôi sẽ trích đăng một số phần quan trọng nói về hậu trường chính trị Việt Nam từ sau Ðại Hội Ðảng CSVN lần thứ tư. Ðể hiểu được những phần tiếp theo, trước hết chúng tôi trích thuật phần tổ chức chính quyền CSVN.

 

*
Ðại Cương Về Tổ Chức Chính Quyền Của Ðảng CSVN

Tổ chức hành chính của những quốc gia Cộng Sản có một số khác biệt, theo đó, đảng Cộng Sản là đảng độc tôn và duy nhất, nắm thực quyền lãnh đạo tất cả các cơ quan, các ngành, kể cả quân đội của quốc gia. Tất cả những nhân vật lãnh đạo chính quyền đều phải là đảng viên. Trong những cơ quan cấp thấp hơn, dù đôi khi vì khả năng mà không ở địa vị lãnh đạo, đảng viên vẫn là những người có quyền lực và dễ được thăng tiến nhất. Song song với những ban lãnh đạo đơn vị hành chánh hay quân đội từ cấp lớn đến cấp nhỏ, có những đơn vị đảng ủy cơ quan, chẳng hạn quận ủy, tỉnh ủy, chính ủy trung đoàn, sư đoàn…

Những diễn biến quan trọng nhất của các đảng Cộng Sản là những ngày “đại hội Ðảng.” Từ 1976, đảng Cộng Sản Việt Nam cứ mỗi năm năm lại họp đại hội một lần. Ðại hội này có khoảng hơn 1,000 đại biểu đi dự đại hội, thường là những đảng viên cao cấp. Tuy đại hội đảng được tuyên truyền và quảng cáo rầm rộ, những nghi thức được xếp đặt long trọng như lễ nghi tôn giáo, các đại biểu đi tham dự như đi hành hương, nhưng thật ra các đại biểu chỉ đến để nghe diễn văn, báo cáo, vỗ tay tán thưởng rồi dơ tay nhất trí chấp thuận những xếp đặt về nhân sự cũng như chính sách cai trị trong năm năm tới đã được Hội Nghị Trung Ương Ðảng và Bộ Chính Trị thông qua mấy ngày trước đại hội. Thí dụ nếu có bầu 100 người, các đại biểu cũng chỉ bầu những người trong danh sách khoảng 105 người đã được lựa chọn sẵn.

Ngoài ra, các đại biểu cũng không được sửa chữa danh sách của trung ương đảng. Chẳng hạn trong dịp Ðại Hội Ðảng Lần Thứ VIII, Nguyễn Ðình Tứ được Hội Nghị Trung Ương Ðảng mấy ngày trước chọn vào Bộ Chính Trị nhưng ngay sau đó bị bệnh rồi chết trước ngày đại hội, ông ta vẫn được những đại biểu dơ tay nhất trí tán thành, được bầu và có tên trong danh sách công bố.

Bộ Chính Trị của đảng là cơ quan có quyền lực nhất nước. Chính Bộ Chính Trị thành lập chính phủ, đề cử Chủ tịch Nhà nước để cho Quốc Hội chấp thuận. Bộ Chính Trị cũng đề ra chính sách để chính phủ thi hành. Nhiều khi, ủy viên Bộ Chính Trị còn phổ biến thông tư hay chỉ thị cho từng đơn vị, từng cơ quan để thi hành qua hệ thống đảng ủy mà không cần qua hệ thống hành chánh. Sự quan trọng của mỗi ủy viên Bộ Chính Trị sẽ tùy theo thứ tự cao thấp trong danh sách, cao nhất là Tổng Bí Thư. Tuy nhiên, do tệ nạn bè phái, đôi khi có những ủy viên Bộ Chính Trị dù ở thứ tự cao cũng không có thực quyền, chẳng hạn trong thời gian Lê Duẩn làm Tổng Bí Thư, Lê Ðức Thọ (thứ 6) là người có quyền hành nhiều hơn Trường Chinh (thứ 2) hay Phạm Văn Ðồng (thứ 3)…

Ngoài Bộ Chính Trị, đảng Cộng Sản còn có một Ban Bí Thư, lo việc điều hành nội bộ đảng. Chỉ trong trường hợp đặc biệt khi Lê Khả Phiêu làm Tổng Bí Thư, do việc chia chác quyền lực của các phe phái và do sự chuyển đổi khuynh hướng sang học tập khuôn mẫu Trung Hoa, Ban Bí Thư được thay thế bằng Ban Thường Vụ Bộ Chính Trị giống như Trung Hoa. Sau khi Lê Khả Phiêu mất chức hơn ba năm sau, Ban Bí Thư lại được tái lập.

Nếu đại hội đảng cứ mỗi năm năm lại họp một lần để bầu những ủy viên trung ương đảng và đề ra chính sách chung thì “Hội Nghị Trung Ương Ðảng,” gồm khoảng trên dưới 150 ủy viên mỗi năm lại họp hai hay ba lần để thích ứng với những biến chuyển mới của tình hình. Những ủy viên trung ương đảng là những đảng viên cao cấp nhiều quyền lực nhất, trong đó ngoài những ủy viên Bộ Chính Trị còn có những bộ trưởng, thứ trưởng, giám đốc xí nghiệp quốc doanh, những tỉnh ủy, tư lệnh hay chính ủy quân khu … Những quyết định quan trọng của chính phủ thật ra không phải xuất phát từ những cuộc họp của hội đồng nội các mà là từ những Hội Nghị Trung Ương Ðảng. Các bộ trưởng, thứ trưởng chỉ là những người thừa hành những nghị quyết hoặc của Bộ Chính Trị, hoặc của Trung Ương Ðảng.

Vì đại hội đảng cứ năm năm lại họp một lần, cho nên giữa hai đại hội đảng, có khoảng hơn mười đại hội trung ương đảng, trong đó đại hội trung ương lần chót thường quan trọng nhất, vì đó là lúc chuẩn bị sẵn sàng cho những thay đổi nhân sự hay chính sách của đại hội đảng kế tiếp. Thứ tự những Hội Nghị Trung Ương Ðảng được đánh dấu từ ngay sau mỗi đại hội đảng, thí dụ sau đại hội đảng lần thứ VI năm 1986 vài tháng, có hội nghị của các ủy viên trung ương đảng được gọi là hội nghị trung ương lần thứ nhất, khóa VI. Hội Nghị Trung Ương Ðảng tháng 4 năm 2006 được gọi là Hội Nghị Trung Ương Ðảng thứ 15, khóa IX. Chính hội nghị này đã quyết định nhân sự trong Bộ Chính Trị cũng như danh sách những ủy viên trung ương đảng mới để cho đại hội đảng lần thứ X biểu quyết chấp thuận.

Hội Nghị Trung Ương Ðảng bất cứ lúc nào cũng có thể bầu thêm hay loại bỏ một vài ủy viên Bộ Chính Trị. Thí dụ, năm 1994, trung ương đảng bầu thêm Lê khả Phiêu cùng 3 người nữa vào Bộ Chính Trị, và năm 2001, dù Bộ Chính Trị có đề nghị để Lê khả Phiêu làm Tổng Bí Thư thêm một nhiệm kỳ, nhưng đề nghị này bị Hội Nghị Trung Ương Ðảng trước ngày đại hội đảng loại bỏ.

Các đại biểu Quốc Hội cũng là những người có địa vị quan trọng trong các cơ quan, tuy danh sách những ứng cử viên là do ban tổ chức đảng hay một cơ quan trực thuộc là Mặt trận Tổ quốc lựa chọn mà đại đa số là những đảng viên cốt cán. Các ứng cử viên cũng không cần vận động tranh cử và cũng không nhất thiết phải sinh sống ở những nơi mình đại diện. Thường thì Quốc Hội chỉ họp để hợp thức hóa những đạo luật theo tinh thần những chỉ thị hay nghị quyết mà đảng đưa ra. Nguyên chánh văn phòng Quốc Hội Nguyễn Tấn Gi Trọng nhận xét “Bây giờ thậm chí bài phát biểu của đại biểu Quốc Hội còn phải trình cấp trên duyệt trước.” Tệ hơn nữa, chẳng hạn khi chính phủ thông báo là ngày 9-6-2000, Quốc Hội Việt Nam đã thông qua Hiệp ước Biên giới trên đất liền ký với Trung Hoa cuối năm 1999, thì thật ra hầu hết các đại biểu Quốc Hội không ai biết gì về chi tiết bản hiệp ước. Mấy năm gần đây, Quốc Hội tương đối được giao thêm chút quyền hành, chẳng hạn có thể triệu tập bộ trưởng ra công khai đối chất, nhưng cũng chỉ là hình thức vì Quốc Hội không có quyền hạn gì để đưa ra những biện pháp chế tài. Vì hầu hết đại biểu Quốc Hội đều là những đảng viên đã được đảng hay Mặt Trận Tổ Quốc thanh lọc nên tất cả đều bị sự chi phối của đảng. Mỗi nhiệm kỳ, thường thì Mặt Trận Tổ Quốc cũng cử thêm vài người không phải đảng viên nhưng ngoan ngoãn nghe lời vào Quốc Hội để tỏ ra là cũng có dân chủ.

Những người này muốn lập công lại càng bảo thủ hơn đảng viên, thí dụ trường hợp bà Ngô Bá Thành. Riêng về ngành tư pháp của những nước Cộng Sản thì hoàn toàn chỉ là hình thức, thi hành những quyết định của đảng, chẳng hạn khi Chu Minh Tuấn, một cán bộ cao cấp ở Hải Phòng gian lận bán đất của công, tỉnh ủy Nguyễn Văn Thuận can thiệp cho khỏi phải ra tòa hình sự để bị kết án tù, viên phó chánh án tỉnh đã thú nhận: “Trên đã nói mà mình không làm thì cũng khó.” Trong việc xử án, chánh án luôn đứng về phe công tố, ngăn cản người bị buộc tội không cho có ý kiến, nhiều khi còn mạt sát nạn nhân.

Do bản chất cực đoan và cuồng tín của chủ nghĩa Mác-xít và Lê-nin-nít, và vì dưới chế độ đảng trị, quyền lợi đi đôi với chức vụ cho nên những tranh chấp nội bộ của những lãnh tụ Cộng Sản diễn ra tương đối khốc liệt.

Trong đảng Cộng Sản Việt Nam, sự tranh giành quyền lực trong bóng tối tuy không dã man như thời Staline, tàn bạo như thời Mao Trạch Ðông, nhưng những thủ đoạn được dùng cũng rất tinh vi. Trong những năm gần đây, sự tranh giành quyền hành được coi như xảy ra giữa hai phe nhóm (hay bè phái) trong đảng, tạm gọi là bảo thủ và tiến bộ (đúng hơn là thực dụng). Hai từ ngữ bảo thủ và tiến bộ này đúng ra chỉ áp dụng được về phương diện kinh tế. Ông Ðặng Văn Việt, anh hùng quân đội Cộng Sản trong chiến tranh Ðông Dương I, năm 2006 đã phân biệt hai xu hướng chính trị ở Việt Nam đúng nghĩa hơn như sau “bảo thủ là những người có chức, có quyền, có thể bắt bớ và gán tội người khác, còn tiến bộ là những người không chức không quyền, chỉ có ngòi bút và cái mồm.”

Những người được coi như tiến bộ như Võ Văn Kiệt, Nguyễn Minh Triết… sẽ không bao giờ được giao cho nắm quyền hành nếu về chính trị, họ không hết lòng tin vào chuyên chính vô sản. Bảo thủ hay giáo điều, tin tưởng vào chủ nghĩa Mác nhiều hơn, thường là những cán bộ nắm quyền điều hành các cấp của đảng, nhất là các ngành quân đội, công an, thông tin văn hóa… Trong khi đó, đầu óc “thoáng và mở” hơn phần lớn là các cán bộ và tỉnh ủy ở miền Nam, hay các viên chức chính phủ thuộc các ngành thương mại, ngoại giao… Tuy căn bản của kinh tế thị trường đi ngược với lý thuyết của Mác, nhưng đảng Cộng Sản Việt Nam đã phải dựa vào kết quả hiển nhiên của chính sách kinh tế này để biện minh cho sự lãnh đạo độc tôn của đảng, nói là nhờ có đảng mà họ đã có được một đường lối kinh tế “đúng đắn.” Các cán bộ cao cấp của đảng dù bảo thủ đến đâu cũng biết đảng sẽ tan rã nếu kinh tế và đời sống nhân dân sa sút. Ðiều này chỉ có thể thực hiện được nhờ kinh tế thị trường và sự hội nhập vào kinh tế thế giới. Hơn nữa, nhân danh phương châm của Cộng sản là trong giai đoạn xã hội chủ nghĩa “làm theo lao động, hưởng theo chức vụ,” các lãnh tụ Cộng đảng chức vụ càng cao càng tự cho mình phải có quyền lợi nhiều hơn.

Dù lương chính thức rất thấp, nhưng với chức vụ và quyền hành, họ làm “ô dù” để gia đình và họ hàng tham gia hay thiết lập những dịch vụ hay công ty béo bở. Do đó mà phe đổi mới trong mấy năm nay vẫn giữ được vị thế ngang ngửa trong đảng. Nhờ dân trí tương đối cao, vị trí địa dư thuận lợi, đất đai nhiều tài nguyên và bắt đầu từ một căn bản kinh tế thấp kém khiến cho Việt Nam có một số điều kiện ốt để thu hút tư bản ngoại quốc vào phát triển (giá nhân công rẻ mạt so với các nước lân cận, thị trường đông đảo 80 triệu dân, môi trường đầu tư chưa được khai thác…)

Trong hơn mười năm qua, Việt Nam đã đạt được một số thành quả kinh tế nhất định. Tuy nhiên, mức sống người dân vẫn thua xa những nước trong vùng như Thái Lan, Mã Lai, Phi Luật Tân…

Vì địa vị và quyền hành độc tôn (của định hướng xã hội chủ nghĩa) trên lý thuyết không đi đôi với tiền bạc (kiếm được do kinh tế thị trường). Hơn nữa, hệ thống quyền lực lại là một hệ thống bí mật của đảng ủy nên những nhũng lạm dễ dàng được bao che. Khi Ðào Ðình Bình, bộ trưởng Giao Thông Công Chánh, bị Quốc Hội tra vấn về vụ tham nhũng của vụ PMU 18, ông ta thản nhiên trả lời là ông thuộc diện “trung ương quản lý, đã trả lời cho trung ương đảng,” khiến cho Quốc Hội và ngay cả Thủ Tướng Phan Văn Khải cũng không thể làm gì ông ta được. Suốt 20 năm qua, những cán bộ lãnh đạo nào của đảng cũng nói đến đổi mới và nói đến bài trừ tham nhũng nhưng tệ nạn tham nhũng vẫn luôn luôn tràn lan.

Ðể duy trì sự hợp pháp của chế độ, chính quyền Cộng Sản hiện đang theo đuổi một chính sách kinh tế được gọi là “kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa.” Ðó thật ra chỉ là hai mặt của những biện pháp bảo vệ chế độ. Kinh tế thị trường, dù đi ngược với chủ nghĩa Mác, đã giúp cho đời sống kinh tế của người dân thoải mái hơn, giống như một hình thức vuốt ve, mua chuộc, còn định hướng xã hội chủ nghĩa là nhân danh chuyên chính vô sản để răn đe dọa nạt người dân.

Trong tương lai gần, sẽ khó có những thay đổi nhanh chóng trong tiến trình dân chủ hóa ở Việt Nam. Tuy không còn ai tin vào những danh hiệu tự do, dân chủ, bình đẳng, thế giới đại đồng… của chủ nghĩa Cộng Sản, nhưng nó vẫn là một đảng độc tôn và có nhiều đảng viên trung thành vì chỉ đảng viên, dù bảo thủ hay tiến bộ, mới có thể có những đặc quyền đặc lợi như quyền cao chức trọng, nhà cao cửa rộng, xe cộ, cơ hội ra nước ngoài, con cháu lý lịch tốt được du học, trở về làm việc ở những cấp lãnh đạo (như Nông Ðức Mạnh/ Nông Ðức Tuấn, Ðặng Xuân Khu/ Ðặng Xuân Kỳ, Trần Ðức Lương/ Trần Anh Tuấn, Lê Ðức Thọ/ Lê Nam Tiến, Ðào Duy Tùng/Ðào Duy Quát, Nguyễn Cơ Thạch/Phạm Bình Minh, Ðặng Vũ Chính/Vũ Quốc Dũng…) và rồi họ cũng vẫn muốn giữ nguyên tình trạng đặc ân như vậy. Một số cán bộ lãnh đạo đảng như Võ Văn Kiệt, Ðoàn Duy Thành, Trần Ðộ, Nguyễn Trung Thành, Lê Hồng Hà… chỉ bắt đầu chê trách những hành vi của đảng sau khi đã không còn nắm quyền hành. Ngoài ra, dù cho đảng có thay đổi hơn một nửa số ủy viên trung ương cũng như số ủy viên Bộ Chính Trị mỗi năm năm, những người mới này đều được những người cũ lựa chọn và dĩ nhiên, họ chỉ chọn những người có quan điểm chính trị tương tự để bảo vệ ưu quyền của họ.

Vì tất cả những thay đổi nhân sự hay thay đổi chính sách quan trọng đều bắt đầu từ những đại hội đảng, được họp mỗi năm năm. Những diễn biến chính trị của Việt Nam sẽ được trình bày theo những giai đoạn năm năm đó, bắt đầu từ Ðại Hội IV tổ chức ngày 14 đến ngày 20 tháng 12 năm 1976 tại Hà Nội.

.

Phần I

Chính Quyền Cộng Sản Việt Nam Sau Ðại Hội IV (1976-1982)

Vào tháng 8 năm 1976, tại hội nghị thượng đỉnh các quốc gia không liên kết ở Tích Lan, đến lượt một người da ngăm đen, miệng luôn mỉm cười bước lên diễn đàn đọc diễn văn. Ông ta được những lãnh tụ của khối trung lập vỗ tay tán thưởng nồng nhiệt vì ông là thủ tướng của một nước Việt Nam vừa chiến thắng và thống nhất. Tuy nhiên, chỉ vài phút sau, những lời lẽ trong bài diễn văn của con người có bề ngoài hòa nhã này đã gây kinh ngạc và tức giận cho những nhà lãnh đạo các quốc gia trong vùng. Ông tuyên bố Việt Nam vẫn coi những quốc gia ASEAN lân bang như những công cụ đế quốc và sẽ không bao giờ quên là những quốc gia này đã giúp Hoa Kỳ trong những năm chiến tranh. Ông còn nói tiếp là Việt Nam có nghĩa vụ giúp đỡ nhân dân những quốc gia này đạt được một nền “độc lập thật sự” (1).

Bài diễn văn hàm ý đe dọa và ngạo mạn của Phạm Văn Ðồng tại đại hội thượng đỉnh kể trên đã thể hiện cái khí thế đang lên của những nhà lãnh đạo Cộng Sản Việt Nam nói riêng và phong trào Cộng Sản nói chung lúc đó. Chiến thắng 1975 của Bắc Việt Nam đã được coi như một minh chứng cho sự ưu việt của chủ nghĩa Marx và sự suy yếu của phe tư bản. Vì thế, theo họ, đường lối xã hội chủ nghĩa là một đường lối sáng suốt, đúng đắn, tiên tiến và Việt Nam sẽ cương quyết đi theo con đường đó, về đối nội cũng như đối ngoại.

Trong những năm cuối của thập niên 70, quyền cai trị Việt Nam vẫn nằm trong tay những ủy viên Bộ Chính Trị già nua đã được bầu trong đại hội Ðảng lần thứ ba từ năm 1960. Những ủy viên được bầu năm đó gồm có: Hồ Chí Minh, Trường Chinh, Lê Duẩn, Phạm Văn Ðồng, Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Duy Trinh, Hoàng Văn Hoan, Nguyễn Chí Thanh, Phạm Hùng, Lê Ðức Thọ và Lê Thanh Nghị. Trong số những người này, Hồ Chí Minh, Nguyễn Chí Thanh đã chết, Hoàng Văn Hoan bị cô lập vì chủ trương thân Trung Hoa quá lộ liễu. Võ Nguyên Giáp luôn bị Lê Duẩn chèn ép, nên sau cái chết của Hồ Chí Minh, dần dần bị mất uy thế. Trường Chinh tuy mất chức sau Cải Cách Ruộng Ðất, xuống vị trí thứ 2 nhưng nhẫn nhịn để yên phận. Thực quyền lãnh đạo đảng Cộng Sản nằm trong tay Lê Duẩn và Lê Ðức Thọ.

Sự liên kết giữa Lê Duẩn và Lê Ðức Thọ đã có từ nhiều năm. Lê Duẩn là một cán bộ kỳ cựu hoạt động tại miền Nam cùng thời với Lê Hồng Phong, Trần Phú, Nguyễn Thị Minh Khai… và đã bị Pháp bắt đày ra Côn đảo, nhưng trong năm 1945, khi phong trào kháng chiến nổi lên chiếm được chính quyền tại Sài gòn một thời gian ngắn, những người trong Ủy ban Hành Chính Kháng Chiến Nam Bộ đã không cho người ra đón Lê Duẩn ngay. Mấy tuần sau mới được đón về Sài gòn thì Lê Duẩn vẫn bị bỏ quên, không được trọng dụng cho đến khi Lê Ðức Thọ vào Nam. Sau hiệp định Genève, Lê Duẩn tập kết ra Hà Nội và khi Trường Chinh bị mất chức Tổng Bí Thư, Lê Duẩn được cất nhắc lên làm Bí thư thứ nhất. Tuy trong thời gian đó, nhờ chiến thắng Ðiện Biên Phủ, uy tín của Võ Nguyên Giáp rất cao, nhưng Hồ Chí Minh đã lựa chọn Lê Duẩn có lẽ vì đảng Cộng Sản đang mưu toan xâm nhập và khởi sự gây loạn ở miền Nam. Lê Duẩn tuy sinh đẻ tại miền Trung nhưng đã hoạt động lâu năm tại miền Nam. Ðề cử Lê Duẩn làm bí thư thứ nhất là một biện pháp lấy lòng nhân dân miền Nam, chứng tỏ họ vẫn coi nước Việt Nam là một. Một lý do khác là có thể Hồ Chí Minh cũng e ngại uy tín của Võ Nguyên Giáp sau trận Ðiện Biên Phủ. Ðồng thời với sự thăng tiến của Lê Duẩn năm 1956, Lê Ðức Thọ cũng được thay Lê Văn Lương giữ trọng trách trưởng ban tổ chức đảng.

Vì mới từ miền Nam ra, không có hậu thuẫn mạnh trong đảng cũng như uy tín đối với nhân dân miền Bắc, Lê Duẩn phải dựa vào Lê Ðức Thọ, để cho Lê Ðức Thọ mặc tình thao túng chính sách và nhân sự của đảng và nhà nước. Vì lý do chiến tranh, trong suốt hơn hai chục năm sau 1960, đã không có đại hội đảng nào được triệu tập, Lê Ðức Thọ với cương vị trưởng ban tổ chức đã có toàn quyền thay đổi, sắp xếp và thay đổi nhân sự trong đảng cũng như trong chính phủ. Dưới tay Lê Ðức Thọ, còn có Nguyễn Ðức Tâm, giữ ban chỉ đạo trung ương, Trần Quyết, trưởng ban kiểm tra, Hoàng Thao, trưởng ban nội chính, Nguyễn Ðình Hưởng, ban bảo vệ chính trị, Nguyễn Trung Thành, ban bảo vệ đảng. Trong quân đội, Lê Ðức Thọ dùng Nguyễn Chí Thanh rồi Song Hào và Ðại Tá Kính Chi (cục bảo vệ chính trị quân đội) để kiểm soát. Những người này cùng với Trần Quốc Hoàn, bộ trưởng Bộ Công An, tạo nên một bộ máy hữu hiệu kiểm soát tất cả những sinh hoạt của nhân dân cũng như cán bộ (2).

Người được coi như cái gai trước mắt của Lê Duẩn là Võ Nguyên Giáp. Sau chiến thắng Ðiện Biên Phủ, uy tín của Võ Nguyên Giáp đối với thế giới bên ngoài rất lớn, ngang với Hồ Chí Minh cho nên giữa Lê Duẩn và Võ Nguyên Giáp đã có sự ghen ghét. Dù Lê Duẩn được cử làm bí thư thứ nhất, nhưng Hồ Chí Minh, để chia bớt quyền lực của Lê Duẩn, vẫn để cho Võ Nguyên Giáp làm bí thư quân ủy trong khi Lê Duẩn, dù là bí thư thứ nhất của đảng, chỉ được làm phó bí thư cho Võ Nguyên Giáp trong quân ủy. Vì thế, Lê Duẩn luôn luôn tìm cách nâng đỡ Nguyễn Chí Thanh (3) để cuối cùng, từ đầu thập niên 1960, Nguyễn Chí Thanh đã trở nên một đối thủ của Võ Nguyên Giáp. Trong thời gian Khrushchev cầm quyền ở Liên Xô và hạ bệ Staline, Lê Duẩn nghiêng về Trung Hoa và gán cho Võ Nguyên Giáp là có khuynh hướng xét lại. Tuy Võ Nguyên Giáp được Hồ Chí Minh che chở nên được yên thân nhưng một số những người thân tín dưới quyền đã bị bắt và Võ Nguyên Giáp cũng không dám lên tiếng bênh vực.

Càng những năm về sau, thế lực của nhóm Duẩn và Thọ càng mạnh, lấn lướt cả Hồ Chí Minh cho nên sau năm 1972, Võ Nguyên Giáp mất chức Tổng tham mưu trưởng quân đội. Sau khi Hồ Chí Minh chết, Lê Duẩn và Lê Ðức Thọ đã dần dần hạ tầng công tác và cuối cùng, khai trừ luôn Võ Nguyên Giáp. Trong nhiều năm, Lê Duẩn vẫn thường công khai chê trách tài cầm quân của Võ Nguyên Giáp (4).

Năm 1975, sau khi đã chiếm được miền Nam, đảng Cộng Sản Việt Nam tổ chức đại hội đảng lần thứ tư từ ngày 14 đến ngày 20-12-1976 để thích ứng với tình hình mới. Vì mới thống nhất, số ủy viên trung ương đảng được tăng lên từ 77 lên 133 người, số ủy viên Bộ Chính Trị cũng được tăng từ 11 lên 14 người cùng với 3 ủy viên dự khuyết, xếp theo thứ tự gồm có:

1. Lê Duẩn, được cải danh từ bí thư thứ nhất lên Tổng Bí Thư.

2. Trường Chinh, kiêm nhiệm chủ tịch Quốc Hội.

3. Phạm Văn Ðồng, Thủ Tướng.

4. Phạm Hùng, Phó Thủ Tướng.

5. Lê Ðức Thọ, Trưởng Ban Tổ Chức Trung Ương Ðảng.

6. Võ Nguyên Giáp, Bộ Trưởng Bộ Quốc Phòng.

7. Nguyễn Duy Trinh, Bộ Trưởng Bộ Ngoại Giao.

8. Lê Thanh Nghị, Chủ Tịch Ủy Ban Kế Hoạch Nhà Nước.

9. Trần Quốc Hoàn, Bộ Trưởng Bộ Công An.

10. Văn Tiến Dũng, Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Ðội.

11. Lê Văn Lương, Bí Thư Thành Ủy Hà Nội.

12. Nguyễn Văn Linh, Bí Thư Thành Ủy Thành Phố Hồ Chí Minh.

13. Võ Chí Công, Kiêm Nhiệm Bộ Trưởng Bộ Hải Sản.

14. Chu Huy Mân, Chủ Nhiệm Tổng Cục Chính Trị thay Song Hào. Song Hào đã mất chức vì trong cuộc chiến 1972, quân Cộng Sản chết quá nhiều ở Quảng Trị và theo Nhật Ký Trần Quỳnh, Song Hào đã đổ lỗi lầm này cho Lê Duẩn. Người thay Song Hào là Chu Huy Mân, trước 1954 là một trung đoàn trưởng tham dự trận đánh Ðông Khê, sau vào Nam đóng ở mật khu An Lão, vùng Bình Ðịnh, từng tham dự trận đánh Ia Drang. Sự lên chức mau lẹ của Chu Huy Mân vượt qua khỏi những tướng lãnh có chức vụ cao và thâm niên hơn như Hoàng Văn Thái, Lê Trọng Tấn, Hoàng Minh Thảo… cho thấy quyết tâm của Lê Duẩn và Lê Ðức Thọ muốn loại trừ những người đã từng phục vụ lâu năm dưới sự chỉ huy của Võ Nguyên Giáp.

Ba ủy viên dự khuyết trong Bộ Chính Trị lần này là Tố Hữu, Võ Văn Kiệt và Ðỗ Mười. Sau khi chiến thắng, không còn cần phải che giấu, đại hội đảng lần này cũng quyết định bỏ đi cái tên đảng Lao Ðộng mà lấy lại tên là đảng Cộng Sản Việt Nam. Ðể chứng tỏ quyết tâm theo đuổi chủ nghĩa Cộng Sản, tên nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa được đổi thành Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam. Tạp chí Học Tập, tạp chí chính thức của đảng cũng trở nên tạp chí Cộng Sản. Tôn Ðức Thắng được tiếp tục giữ chức chủ tịch nước (5). Hai phó chủ tịch là Nguyễn Lương Bằng và Nguyễn Hữu Thọ.

Trong thành phần Bộ Chính Trị được bầu lần này, Hoàng Văn Hoan đã bị loại sau đó trốn sang Trung Hoa, Võ Nguyên Giáp còn được giữ lại do uy tín trong quân đội nhưng bị đẩy xuống đứng sau Lê Ðức Thọ. Tuy Bộ Chính Trị có thêm vào những nhân vật mới từ miền Nam ra như Phạm Hùng, Nguyễn Văn Linh, Võ Chí Công… nhưng thực quyền vẫn nằm trong tay của những ủy viên cao cấp đã từng nắm quyền suốt hơn hai chục năm qua, nhất là Lê Duẩn và Lê Ðức Thọ. Vì thế, đường lối chính sách của đảng Cộng Sản Việt Nam vẫn không có gì thay đổi.

Trong những ủy viên cao cấp Bộ Chính Trị lúc đó, Phạm Văn Ðồng luôn luôn yên phận để ngồi yên chức thủ tướng, Trường Chinh dù là một cán bộ lão thành nhưng uy tín đã bị suy giảm sau vụ Cải cách ruộng đất. Ông ta được yên thân vì sau khi bị mất chức Tổng Bí Thư năm 1956, đã không bao giờ tỏ ra bất mãn hay đối nghịch với Lê Duẩn và cũng là người miền Bắc duy nhất trong những lãnh tụ cao cấp của Bộ Chính Trị. (trong đảng, ba người thứ tự cao cấp nhất của Bộ Chính Trị thường là từ ba miền Bắc, Trung, Nam. Lê Duẩn người miền Trung, Phạm Hùng, miền Nam). Vì thế phe cánh của Lê Duẩn và Lê Ðức Thọ trong Bộ Chính Trị sau đại hội đảng lần thứ tư được thêm vào Văn Tiến Dũng và Chu Huy Mân lại càng được củng cố…

Riêng những người thuộc Mặt Trận Giải Phóng chỉ có Nguyễn Hữu Thọ, Huỳnh Tấn Phát, Nguyễn Thị Bình được cho giữ những chức vụ không có quyền hành, còn những người khác như Trịnh Ðình Thảo, Lâm Văn Tết, Trương Như Tảng… bị gạt ra ngoài (6). Những nhân vật thân Cộng như Ngô Công Ðức, Lý Quí Chung(7), Lý Chánh Trung, Trần Thúc Linh, Nguyễn Hữu Hạnh, Dương Văn Ba, Hồ Ngọc Cứ…  phải học một lớp học chính trị mà người dạy là Vũ Khiêu, xuất thân là một giáo viên ở Lạng Sơn. Bài “thu hoạch” của họ, nội dung chỉ là phản tỉnh và cong lưng qui thuận được đăng lại trên báo Ðại Ðoàn Kết để làm công cụ tuyên truyền.

Trước viễn ảnh không thể hòa giải với Trung Hoa, Việt Nam bắt đầu những biện pháp ngăn ngừa Trung Hoa trả đũa. Trước hết, họ bắt tất cả những người Hoa nhập Việt tịch, nếu không sẽ mất quyền lợi mua lương thực. Sau đó, vào ngày 24-3-1978, chính phủ Việt Nam mở một đợt đánh tư sản mại bản, nhắm vào khối người Hoa để tịch thu gia sản của họ, đồng thời cũng ép buộc và khuyến dụ những người này rời khỏi Việt Nam để một mặt, tránh hiểm họa đạo quân thứ năm, mặt khác tịch thu thêm vàng bạc. Từ đó, phong trào thuyền nhân ra đời. Nhiều người đến được những trại tỵ nằm rải rác ở Mã Lai, Thái Lan, Nam Dương, Phi Luật Tân, Hồng Kông, Nhật Bản…, nhưng cũng có hàng trăm ngàn người khác phải bỏ mình ngoài biển khơi hay làm nạn nhân cho hải tặc (20).

Dĩ nhiên, chính quyền Trung Hoa lập tức phản kháng, họ gọi những Hoa Kiều ở Việt Nam là “nạn kiều” và ngưng tất cả những dự án Trung Hoa đang viện trợ cho Việt Nam, rút hết những chuyên viên về nước. Sự tranh chấp giữa hai nước đã trở nên mãnh liệt đến nỗi nghị quyết số 9 của Trung Ương Ðảng năm 1978 đã ghi rõ Trung Hoa là kẻ thù trực tiếp và nguy hiểm nhất (trong khi Hoa Kỳ được coi như kẻ thù cơ bản và lâu dài). Ðiều này đến 1982 được ghi vào hiến pháp. Sau cuộc chiến với Căm Pu Chia và Trung Hoa, năm 1981, nghị quyết 39 của Bộ Chính Trị còn ghi là Cộng Sản Việt Nam sẽ “đấu tranh chống chủ nghĩa Mao trên mọi hình thái..” Ðiều này khác hẳn với lời mở đầu trong Ðiều Lệ Ðảng năm 1951 “ đảng Lao Ðộng Việt Nam lấy học thuyết Mác, Ăng Ghen, Lê Nin và tư tưởng Mao Trạch Ðông kết hợp với thực tế cách mạng Việt Nam làm nền tảng tư tưởng” (21).

Ðồng thời với những bất đồng ngày càng nghiêm trọng với Trung Hoa, những mâu thuẫn giữa hai phong trào Cộng Sản Việt Nam và Căm Pu Chia sau 1975 lại càng trầm trọng hơn. Thật ra sự mâu thuẫn này đã có từ lâu. Tuy đảng Cộng Sản Căm Pu Chia được thành lập và đỡ đầu bởi đảng Cộng Sản Việt Nam, nhưng cũng chính vì điều này, cộng thêm bản chất tự tôn của những người cộng sản tự coi mình thuộc giai cấp tiên tiến, đang mang nghĩa vụ giải phóng toàn thể nhân loại, khiến cho những cán bộ Việt Nam mặc nhiên tự coi như giữ vai trò lãnh đạo, đàn anh đối với hai nước Lào và Căm Pu Chia. Do mối thù hận bị mất đất và bị cai trị khắc nghiệt trong lịch sử, cộng thêm mối nghi kỵ sẽ bị sát nhập với Việt Nam thành một “liên bang Ðông Dương,” những lãnh tụ Công Sản Căm Pu Chia, vốn đã cuồng tín, càng trở nên đa nghi hơn và kết qủa là hai bên đã phải giải quyết những mâu thuẫn bằng vũ lực trong một trận chiến cộng sản tương tàn (22).

Ngay trong tháng 4 năm 1975, sau khi cướp được chính quyền, quân Khmer Ðỏ đã tấn công đảo Thổ Châu, Hòn Trọc (Wai) và Phú Quốc của Việt Nam, mở đầu cho những đợt xung đột võ trang dọc theo biên giới hai nước. Những xung đột này trở nên bùng nổ dữ dội vào hai năm sau, vào đúng đêm trong đêm 30-4-1977, quân Khmer Ðỏ tấn công qui mô vào nhiều làng xã thuộc tỉnh An Giang, tàn sát nhiều người vô tội, sau đó đến tháng 9, 1977, đến lượt vùng biên giới Tây Ninh bị đánh. Chịu trách nhiệm phòng thủ Tây Ninh là Trần Văn Trà, tư lệnh Quân Khu VII. Trần Văn Trà đang dự định hành quân qui mô để trả đũa thì bị mất chức và kéo về trung ương, để cho Lê Ðức Anh đang làm tư lệnh Quân Khu IX lên thay (23). Trần Văn Trà đã mất chức trong giai đoạn nghiêm trọng này với lý do sơ hở về phòng thủ, không bảo vệ được dân chúng, nhưng lý do chính là vì sau năm 1975, những cán bộ người miền Nam trong Mặt Trận Giải Phóng không còn được tin dùng và dần dần bị tước đoạt hết quyền lực. Ðiều này đã gây ra bất mãn và chính quyền trung ương không thể để cho một người cốt cán của Mặt Trận nắm binh quyền ở một quân khu quan trọng. Ngoài ra, Trần Văn Trà cũng làm mất lòng Văn Tiến Dũng và Lê Ðức Thọ khi viết hồi ký nhận phần lớn công trạng là của mình trong chiến thắng 1975. Do thay đổi cấp chỉ huy, phải chờ đến mấy tháng sau, cuối năm 1977, quân Việt Nam mới tràn qua biên giới phản công. Bị quân Việt Nam tràn ngập, hai sư đoàn 3 và 4 của Khmer Ðỏ coi như bị tiêu diệt, Căm Pu Chia lên tiếng tố cáo Việt Nam xâm lăng và chính thức cắt đứt quan hệ ngoại giao với Việt Nam. Ðể tránh dư luận quốc tế, quân Việt Nam phải rút về nước.

Do thất bại không thể chận đứng được cuộc tấn công của quân Việt Nam, Pol Pot đổ lỗi cho quân khu Ðông ở sát biên giới Việt Nam và mở một cuộc thanh trừng đẫm máu. Cuộc thanh trừng này một mặt làm suy yếu lực lượng quân đội Căm Pu Chia, mặt khác đẩy một số cán bộ lãnh đạo của Khmer Ðỏ như Heng Samrin, Hun Sen trốn sang Việt Nam, tạo cơ hội cho Việt Nam thành lập một Mặt trận Giải phóng bù nhìn để xâm lăng.

Vì không thể để cho quân Khmer Ðỏ tiếp tục gây rối, chính quyền Cộng Sản Việt Nam thấy cần phải giải quyết dứt khoát, nhưng vì sợ phản ứng của Trung Hoa, Việt Nam phải đi tìm một hậu thuẫn vững mạnh cho nên cuối cùng, Việt Nam đành phải chính thức đứng vào quĩ đạo của Liên Xô. Ngày 1-11-1978, Lê Duẩn và Phạm Văn Ðồng dẫn đầu một phái đoàn đảng và chính phủ sang Mạc Tư Khoa để cùng Brezhnev ký bản hiệp ước “hợp tác và hữu nghị,” theo đó hai nước sẽ liên minh với nhau cả về chính trị, kinh tế lẫn quân sự. Ðiều 6 của hiệp ước này nói rõ là nếu một trong hai nước bị tấn công, cả hai nước sẽ dùng những biện pháp thích hợp đối phó. Từ đó, Liên Xô đã hết lòng viện trợ cho Việt Nam. Số tiền viện trợ và cho vay lên tới nhiều tỷ Mỹ kim. Bù lại, Việt Nam sẽ để cho Liên Xô sử dụng hải cảng Cam Ranh và có thể Ðà Nẵng làm đầu cầu quân sự để kiềm chế Trung Hoa và đối đầu với hạm đội thứ 7 của Hoa Kỳ trong vùng Thái Bình Dương.

Hợp tác hữu nghị và hợp tác giữa Việt Nam và Liên Xô đã gây ra một phản ứng mạnh mẽ tại các nước ASEAN và Hoa Kỳ, đem lại một kết quả thuận lợi cho Trung Hoa. Trước đó hai tháng, Việt Nam đã cử Phạm Văn Ðồng sang Thái Lan, Mã Lai và Tân Gia Ba để ve vãn những nước này. Tại Thái Lan, Phạm Văn Ðồng hứa chấm dứt yểm trợ đảng Cộng Sản Thái. Tại Mã Lai, Phạm Văn Ðồng đến đặt vòng hoa tại đài chiến sĩ tưởng niệm những binh sĩ đã bỏ mình trong cuộc chiến tranh chống Mã Cộng. Riêng đối với Hoa Kỳ, Việt Nam đã bỏ lỡ nhiều cơ hội thiết lập bang giao nhưng khi cần đến thì đã quá trễ.

Sự chậm trễ thiết lập bang giao với Hoa Kỳ bắt nguồn từ những thái độ kiêu căng sau chiến thắng của những lãnh tụ Cộng Sản Việt Nam. Năm 1976, sau khi Tổng Thống Carter được bầu lên, ông muốn lật một trang sử đã qua nên đã cử ngay một phái đoàn thiện chí sang Hà Nội thăm dò về việc thiết lập bang giao. Thiện chí này càng làm giới lãnh đạo Việt Nam thêm phần cao ngạo. Họ nhất định đòi có được ba tỷ Mỹ kim tiền bồi thường chiến tranh như một điều kiện tiên quyết.

Những cuộc hội đàm ở Hà Nội và Paris giữa Thứ Trưởng Ngoại Giao Phan Hiền với Woodcock và Holbrook lần lượt tan vỡ. Cho tới tháng 9 năm 1978, khi Nguyễn Cơ Thạch, lúc đó là thứ trưởng, gặp Holbrook và bằng lòng bỏ đi điều kiện số tiền ba tỷ thì lúc đó, Hoa Kỳ đã bắt đầu thương thuyết với Trung Hoa. Phải lựa chọn giữa hai nước đang đối nghịch nhau, Carter chọn bang giao với Trung Hoa trước và từ đó, do việc Việt Nam đứng vào khối Cộng Liên Xô rồi xâm lăng Căm Pu Chia, bang giao giữa Việt Nam và Hoa Kỳ đã chậm đi mất gần 20 năm.

Sau khi ký hiệp ước hữu nghị và hợp tác, tin tưởng vào hậu thuẫn và sức mạnh của Liên Xô, bất chấp mọi hậu quả từ phản ứng của Trung Hoa và thế giới, ngay sau đêm Giáng Sinh năm 1978, dưới quyền chỉ huy tổng quát của Lê Trọng Tấn (24), quân đội Việt Nam ồ ạt mở một cuộc tổng tấn công toàn diện vào lãnh thổ Căm Pu Chia. Chỉ trong vòng hơn một tuần, quân Việt Nam đã lấy được Nam Vang và khoảng bốn tháng sau, coi như làm chủ được toàn lãnh thổ Căm Pu Chia. Lê Ðức Anh được cử làm tư lệnh đội quân chiếm đóng. Nhưng cũng từ đó, Việt Nam bắt đầu phải gánh chịu một cuộc chiến tranh tiêu hao nặng nề cả về sinh mạng lẫn kinh tế, ngoại giao.

Cuộc xâm lăng Căm Pu Chia của Việt Nam kể trên là một xúc phạm nặng nề cho uy tín nước lớn và lòng tự tôn Ðại Hán của Trung Hoa cho nên Ðặng Tiểu Bình cần phải có biện pháp trả đũa. Một mặt, ông ta tiếp xúc với Thái Lan để tiếp tục giúp đỡ Khmer Ðỏ chống lại Việt Nam. Mặt khác, ông ta không còn khó khăn với Hoa Kỳ về vấn đề Hoa Kỳ tiếp tục bán võ khí cho Ðài Loan nữa mà bằng lòng thiết lập bang giao chính thức một cách gấp rút vào ngày 15-12-1978. Hai tháng sau, Ðặng tiểu Bình lên đường sang thăm Hoa Kỳ, chuẩn bị dư luận cho cuộc tấn công Việt Nam. Khi được Ðặng Tiểu Bình cho biết trước về cuộc tấn công, Tổng Thống Carter đã không tán thành nhưng cũng không phản đối.

Sau khi sửa soạn xong, ngày 17-2-1979, quân đội Trung Hoa bắt đầu tấn công vào những tỉnh biên giới Việt Hoa, dọc theo chiều dài hơn 1,000km của biên giới Việt Hoa từ Lai Châu đến Quảng Ninh. Dù sao Trung Hoa cũng e sợ phản ứng của Liên Xô nên cuộc chiến tranh này đã được Trung Hoa gián tiếp thông báo trước giới hạn về qui mô thời gian và không gian. Tuy thế, dù chỉ kéo dài có hơn một tháng, sự tổn hại nhân mạng mỗi bên (cả hai bên đều giấu kín, khi loan báo chính thức thì cả hai đều giảm thiểu tổn thất của mình và thổi phồng tổn thất của địch) cũng phải lên tới nhiều chục ngàn và hầu hết những thị xã của Việt Nam dọc biên giới đều bị tàn phá. Nhìn vào cuộc chiến, quân đội Việt Nam chứng tỏ khả năng phòng thủ bền bỉ và khả năng chiến đấu cao hơn, trong khi quân đội Trung Hoa bộc lộ ra nhiều nhược điểm và đã phải trả giá khá đắt cho “bài học” mà họ muốn dạy. Tuy nhiên, theo thời gian, Việt Nam đã phải gánh chịu một hậu quả tai hại hơn. Về chính trị, kinh tế, quân sự phải gần như hoàn toàn lệ thuộc vào Liên Xô, về ngoại giao thì bị cô lập… Nhưng thời gian đó là thời gian mà đế quốc Liên Xô đang hồi cực thịnh. Trên bề mặt, đế quốc đó đang bành trướng không những ở Á Châu mà còn ở Phi Châu và Nam Mỹ. Việt Nam, theo như Lê Duẩn nói với Brezhnev khi ký thỏa ước hợp tác và hữu nghị, đã chấp nhận “nghĩa vụ quốc tế cao cả,” làm người lính tiên phong cho sự phát triển chủ nghĩa cộng sản, đúng hơn là cho đế quốc Liên Xô ở Á Châu. Từ đó, việc xâm lăng Căm Pu Chia thực ra chỉ là một bài học học từ Liên Xô để áp dụng chủ thuyết Brezhnev, theo đó, một nước Cộng sản có quyền đem quân vào một nước Cộng sản khác, như Liên Xô đã từng đem quân vào Hung Gia Lợi, Tiệp Khắc hay Afghanistan. Ngoài ra, giống như ở Liên Xô, các lãnh tụ Cộng đảng Việt Nam cũng muốn duy trì tình trạng “giữ nguyên trạng” (các cán bộ lãnh đạo sẽ cứ giữ nguyên địa vị cho đến lúc chết nếu không bị thanh trừng vì chống đối hay muốn tranh giành quyền lực với những lãnh tụ đương thời). Nếu những ủy viên Bộ Chính Trị của Liên Xô như Brezhnev (tổng bí thư), Gromyko (ngoại giao), Ustinov (quốc phòng), Suslov (lý thuyết gia), và Andropov (công an)… đều đã ở lì chức vụ lãnh đạo trên dưới hai mươi năm thì ở Việt Nam, lãnh đạo đảng Cộng Sản từ hơn ba mươi năm trước vẫn là những khuôn mặt Duẩn, Chinh, Ðồng, Thọ, Giáp…

Vì ở ngoài mặt, đế quốc Liên Xô đang phát triển nhanh chóng trên toàn thế giới. Ðiều này đã che dấu sự mục nát từ hạ tầng cơ sở của chế độ xã hội chủ nghĩa và của cơ chế kinh tế chỉ huy khiến cho những lãnh tụ Cộng Sản Việt Nam vẫn tin tưởng rằng đường lối kinh tế đó là một đường lối siêu việt và họ vẫn nhất tâm theo đuổi. Vì đất nước bị chia đôi năm 1954 cho nên từ 1954 đến 1975, họ chỉ có thể thi hành chính sách kinh tế này ở miền Bắc. Tất cả những hình thức kinh doanh tư nhân bị xóa bỏ. Những ngành sản xuất hay thương mại đều được điều hành, chỉ huy bởi nhà nước. Chính sách kinh tế tập trung này đều lấy theo khuôn mẫu Liên Xô, theo đó, cơ quan quan trọng nhất để điều hành kinh tế quốc gia là “Ủy Ban Kế Hoạch Nhà nước” mà công việc bao trùm lên tất cả các bộ có liên quan đến kinh tế hay sản xuất. Ủy ban đặt một kế hoạch toàn bộ từ trên xuống dưới cho tất cả những ngành trực thuộc, tính toán tiền bạc, vật dụng được phân phối, sản lượng xuất cảng, nhập cảng… Dựa theo kế hoạch chung đó, Ủy ban Vật giá định giá cả hàng hóa, Bộ Tài Chánh phân phối ngân sách, các Bộ Nội Thương, Ngoại Thương, Lương Thực thu nhập hay phân phối sản phẩm từ trung ương tới địa phương. Kỹ nghệ hay nông nghiệp có trách nhiệm sản xuất đúng chỉ tiêu trong kế hoạch. Ngân sách chi thu của những bộ không có liên quan đến kinh tế như Bộ Y Tế, Quốc Phòng hay Giáo Dục cũng phải dựa theo kế hoạch chung của Ủy Ban Kế Hoạch. Vì thế, chủ tịch Ủy Ban Kế Hoạch thường phải là một phó thủ tướng kiêm ủy viên bộ Chính trị đứng đầu một ủy ban trên 10 người thuộc hàng bộ trưởng hay thứ trưởng. Thường thì kế hoạch hàng năm được soạn thảo xong vào tháng 9 để đưa cho thủ tướng và Bộ Chính Trị duyệt xét cho năm sau. Vì những nước cộng sản giao thương mật thiết với nhau, kế hoạch của những nước này phải liên quan mật thiết với những nước trong khối cộng sản, chẳng hạn số lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam phải ăn khớp với nhu cầu nhập khẩu của những nước khác. Nước đứng đầu khối Cộng là Liên Xô phải nghiên cứu khả năng của những nước đàn em, hoạch định một kế hoạch chính cho cả khối rồi Liên Xô và những nước Ðông Âu theo đó mà đặt kế hoạch của mình.

So với các nước cộng sản khác, kế hoạch kinh tế của nhà nước Cộng Sản Việt Nam trước năm 1975 rất giản dị, vì ngoài nông nghiệp và các mỏ than, mỏ sắt mà mức sản xuất rất giới hạn, kinh tế và ngân sách của Việt Nam lúc đó phần lớn nhờ vào ngoại viện. Mỗi năm, họ làm một danh sách những vật dụng kể cả võ khí, bom đạn hay tiền bạc cần thiết và cử Lê Thanh Nghị, chủ tịch Ủy Ban Kế Hoạch nhà nước sang Liên Xô và Trung Hoa hay các nước Ðông Âu để xin. Lê Thanh Nghị đã được giữ chức vụ này nhiều năm, trở nên một chuyên viên xin viện trợ vì ông ta đã có thể nhẫn nhịn chịu đựng được khi bị các nước viện trợ đôi khi có những thái độ hay lời lẽ khinh thường, nhất là những nước Ðông Âu. Những nước này dù nhiều năm gặp khó khăn cũng vẫn phải viện trợ cho Việt Nam là do áp lực của Liên Xô. Còn Trung Hoa thì tệ hơn, Mao trạch Ðông có lúc gọi Lê Thanh Nghị là “tên ăn mày, lúc nào cũng ngửa bát đòi xin thêm” (25).

Từ 1954, việc xây dựng hệ thống kinh tế xã hội chủ nghĩa ở Bắc Việt bắt đầu bằng một kế hoạch ngũ niên từ 1960 đến 1965, gọi là kế hoạch ngũ niên lần thứ nhất để quốc hữu hóa tất cả các hãng, xưởng, công ty tư nhân và bắt tất cả nông dân vào hợp tác. Những tư nhân tương đối có ít nhiều của cải hay ruộng vườn bị đấu tố tàn nhẫn. Dù rằng sau đó đảng đã hạ tầng công tác của Trường Chinh, Lê Văn Lương và Hoàng Quốc Việt, cho Võ Nguyên Giáp công khai xin lỗi về những lỗi lầm, nhưng mục tiêu phá bỏ tư hữu của họ ở miền Bắc đã đạt được, dù cho đã có nhiều người bị chết hoặc bị tù đày oan uổng. Sau kế hoạch ngũ niên lần thứ nhất này, tất cả những ngành kinh tế tại miền Bắc đều được tập trung, chỉ huy và qui hoạch bởi chính phủ. Dù hệ thống kinh tế đó chẳng sản xuất được bao nhiêu, luôn phải nhờ vào ngoại viện và nhân dân suốt hơn hai mươi năm sống trong nghèo đói, họ đổ thừa thất bại đó là do chiến tranh và do đế quốc phá hoại.

Sau năm 1975, những biện pháp tập thể hóa các ngành kinh tế kể trên lại được áp dụng tại miền Nam (26). Họ gọi đó là kế hoạch ngũ niên thứ hai (từ 1976 đến 1980), là một giai đoạn chuyển tiếp để “cải tạo” công nghiệp nông nghiệp miền Nam vào chiều hướng xã hội chủ nghĩa ngõ hầu kết hợp được với kinh tế miền Bắc. Do chính sách “Người Cày Có Ruộng” của chính phủ Cộng Hòa trước 1975, lúc đó trong miền Nam đã hầu như không còn giai cấp địa chủ, những cảnh đấu tố hai mươi năm trước đã không xảy ra, nhưng những thương gia thì qua những đợt đánh “tư sản mại bản” nếu không khéo chạy chọt, đút lót đều bị trắng tay. Kế hoạch ngũ niên lần thứ hai này được đề ra và chấp thuận trong đại hội đảng lần thứ tư. Vì mục tiêu của kinh tế xã hội chủ nghĩa đặt ưu tiên vào kỹ nghệ nặng, lý luận của các kinh tế gia Cộng Sản Việt Nam là kỹ nghệ nặng sẽ hỗ trợ để nông nghiệp tăng gia sản xuất. Một khi mức sản xuất nông nghiệp gia tăng sẽ hỗ trợ ngược lại để phát triển kỹ nghệ. Tuy nghị quyết ghi như thế, nhưng thật ra những lãnh tụ Cộng Sản Việt Nam đã chủ định rằng trong thời gian đầu sẽ chỉ nhờ vào sức sản xuất của vựa lúa đồng bằng Cửu Long để hỗ trợ cho kỹ nghệ. Họ nghĩ rằng sau khi tập thể hóa, biến miền đồng bằng Cửu Long thành những nông trường hay những tập thể hợp tác, mức sản xuất của nông nghiệp sẽ tăng gia gấp bội. Trong tính toán chủ quan, họ đã đặt ra những chỉ tiêu rất cao, chẳng hạn kỹ nghệ sẽ phát triển 16 đến 18 % mỗi năm, nông nghiệp phát triển từ 8 đến 10%, lợi tức bình quân người dân tăng lên từ 13 đến 14 %. Dưới sự chỉ đạo của Ðỗ Mười, cùng với sự trợ giúp của quân đội (do Trần Văn Danh, tư lệnh phó quân khu VII) và công an (do Cao Ðăng Chiếm chỉ huy), chính phủ Cộng Sản Việt Nam từ 1976, bắt đầu kế hoạch ngũ niên thứ hai, nhằm tập thể hóa công nghiệp và nông nghiệp miền Nam để theo kịp khuôn mẫu xã hội chủ nghĩa giống như ở miền Bắc.

Hiển nhiên là tiến trình tập thể hóa đó đã đưa đến thất bại. Những chỉ tiêu phát triển kinh tế nêu trên đã không thực hiện được. Về nông nghiệp, trong khi những tập thể và hợp tác nông nghiệp tại miền Bắc vẫn chỉ sản xuất tạm vừa đủ ăn thì tại miền Nam, nông dân, phần lớn đều đã có ruộng đất nên không ai muốn vào tập thể. Mới đầu, chính quyền còn khuyến dụ để nông dân tự ý xung phong vào hợp tác, nhưng vì không có kết qủa nên đã phải dùng những biện pháp cưỡng bách. Cán bộ được phép truất hữu ruộng đất, tịch thu máy cày, máy bơm nước, trâu bò… Kết quả là nông dân giết trâu bò gia súc trước khi bị tịch thu, và khi phải vào hợp tác đã không chịu hết sức làm việc cho nên lương thực vào những năm 1978 và 1979 bị thiếu hụt. Theo thống kê chính thức của chính phủ, tổng sản lượng lúa gạo sản xuất năm 1976 là 11.83 triệu tấn, năm 1977 còn 10.60 triệu tấn, năm 1978 là 9.79 triệu tấn. Ðại đa số nhân dân phải ăn độn cơm với khoai hay bo bo (được nhà nước gọi là cao lương).  Nhiều nơi gần như bị nạn đói. Mức sản xuất giảm sút trầm trọng đến nỗi Hội Nghị Trung Ương vào tháng 8 năm 1979 đã phải tạm thời nới lỏng việc tập thể hóa, theo đó, miền Bắc sẽ cho phép ngoài hệ thống kinh tế nhà nước, còn có một phần nhỏ kinh tế cá thể. Riêng miền Nam, còn cho phép kinh tế tư doanh cỡ nhỏ, tạo điều kiện gia tăng sản xuất nông nghiệp và thủ công nghiệp. Về công nghệ, những năm đầu sau chiến tranh, mức sản xuất có tăng đôi chút, vì những hãng xưởng ở miền Bắc không còn bị sơ tán vì chiến tranh và ở miền Nam, việc kiểm soát của chính quyền chưa chặt chẽ lắm. Tuy nhiên, sau 1977, sau khi chính quyền đẩy mạnh “cải tạo công nghiệp,” mức sản xuất sa sút hẳn. Tổng sản lượng sản xuất công nghiệp năm 1980 so với 1976 thấp hơn 3 %. Kỹ nghệ nặng miền Bắc cũng bị tổn hại sau khi quân Trung Hoa tấn công và tàn phá những tỉnh biên giới phía Bắc. Vì nạn thất nghiệp gia tăng, Việt Nam phải gửi hàng trăm ngàn nhân công đi lao động tại Liên Xô và các nước Ðông Âu.

Khi đặt chỉ tiêu phát triển kinh tế thật cao như vậy, Cộng Sản Việt Nam cũng đã lạc quan trông đợi vào sự giúp đỡ của những cường quốc. Tuy nhiên, số tiền ngoại viện đã không được như ý muốn. Tiền bồi thường chiến tranh 3 tỷ Mỹ kim của Mỹ không có, các nước Tây Phương chỉ viện trợ nhỏ giọt, viện trợ của Trung Hoa nửa chừng bị cắt. Sau khi Việt Nam ký hiệp ước hữu nghị với Liên Xô và gia nhập khối kinh tế COMECON của những nước Cộng sản, Việt Nam chỉ nhận được viện trợ của Liên Xô và các nước Ðông Âu, nhưng số viện trợ này không đủ để bù đắp vào những khuyết điểm của một hệ thống kinh tế cứng nhắc, thiếu sáng kiến. Ngoài ra, sự viện trợ của những nước cộng sản anh em (khoảng trên dưới ba tỷ Mỹ kim mỗi năm) không phải không có điều kiện. Việt Nam phải đứng hẳn vào phe Liên Xô để chống lại Trung Hoa và phải để cho Liên Xô sử dụng hải cảng Cam Ranh và Ðà Nẵng.

Ngay sau trận chiến biên giới Việt Hoa, những chiến hạm trang bị dụng cụ điện tử để thu thập tin tức tình báo của Liên Xô bắt đầu cập bến Ðà Nẵng. Sau đó, ngày 27-3-79, một chiến hạm, một hộ tống hạm, một tàu vớt mìn của Liên Xô tiến vào trú đóng tại hải cảng Cam Ranh. Số chiến hạm này tăng dần cho tới năm 1986 thì có tất cả 25 chiến hạm, kể cả tàu ngầm. Cùng với khoảng 16 oanh tạc cơ Badger, một phi đội Mig 23 và những phi cơ chuyên chở và quan sát tầm xa, Liên Xô đã có một đầu cầu quân sự quan trọng đe dọa Trung Hoa cũng như toàn vùng nam Thái Bình Dương (27).

Cũng ngay sau cuộc chiến Việt Hoa trên vùng biên giới, để đối phó với sự đe dọa liên tục của Trung Hoa và để cho có đủ quân số bình định Căm Pu Chia, ngày 5-3-1979, Việt Nam ra lệnh tổng động viên, tăng quân số từ nửa triệu đến hơn 1 triệu, biên chế thành 51 sư đoàn, trong đó có 38 sư đoàn bộ binh (19 sư đoàn đóng ở Căm Pu Chia, 16 sư đoàn ở Việt Nam, 3 sư đoàn ở Lào). Số quân đoàn chính qui (mỗi quân đoàn có 3 hay 4 sư đoàn dùng như những lực lượng tổng trừ bị) cũng tăng từ 4 lên thành 6 rồi 8 (28). Sự bành trướng quân đội này được thực hiện nhờ sự trợ giúp lớn lao của Liên Xô. Trước năm 1975, Liên Xô chỉ cung cấp khoảng 75% trang bị và tiếp liệu của quân đội Cộng Sản Việt Nam, số còn lại là của Trung Hoa và những nước Ðông Âu giúp đỡ. Sau 1975, tỷ số này tăng lên 97%. Mỗi năm, Liên Xô gửi khoảng 15 ngàn cố vấn quân sự sang Việt Nam. Trị giá viện trợ quân sự của Liên Xô cho Việt Nam được ước lượng khoảng 1 tỷ rưỡi Mỹ kim mỗi năm. Ðó là cái giá cần thiết trong mục tiêu chiến lược của Liên Xô để một mặt, dùng Việt Nam cầm chân và bao vây Trung Hoa và mặt khác, có được một đầu cầu chiến lược đối đầu với Hoa Kỳ tại vùng biển Thái Bình Dương, đe dọa Nam Dương và Úc Châu.

Tuy nhiên, dù đã được Liên Xô và các nước Ðông Âu viện trợ dồi dào như thế, do gánh nặng của cuộc chiến Căm Pu Chia và vì phải đề phòng “bài học thứ hai” của Trung Hoa, ngân sách của Việt Nam bị thiếu hụt trầm trọng. Riêng chiến phí quân sự tại Căm Pu Chia đã chiếm mất hơn 40% ngân sách. Ngoài ra, trong thời gian đó, Trung Hoa vẫn cố gắng phát động một cuộc “chiến tranh phá hoại đa diện” khiến cho nền kinh tế Việt Nam càng thêm cùng quẫn. So với Việt Nam, Trung Hoa không thua về kiên nhẫn và thủ đoạn. Họ giúp đỡ Khmer Ðỏ tiếp tục cuộc chiến tranh phá hoại, thường xuyên gây rối ở biên giới, đe dọa về “bài học thứ hai,” ve vãn những chính khách thất sủng như Hoàng văn Hoan, Trương như Tảng của Việt Nam, Không Le của Ai Lao… thành lập những “Mặt Trận Giải Phóng” chống lại Việt Nam. Họ áp lực và mua chuộc để những công ty ở Hồng Kông, Thái Lan, Mã Lai hay Tân Gia Ba không mua hàng hóa của Việt Nam… Những điều này đã khiến kinh tế Việt Nam càng thêm sa sút. Dù căn bản cho sự sa sút kinh tế này là do việc tập thể hóa nông nghiệp và “cải tạo công thương nghiệp” miền Nam, nhưng nhóm cầm quyền vẫn một lòng trung thành với chủ nghĩa Mác, vẫn cho chính sách kinh tế tập trung là siêu việt, và họ đổ lỗi cho những thất bại là do những lý do khách quan như bị những thế lực thù địch phá hoại, do “tàn dư Mỹ Ngụy” hay do cán bộ quản lý yếu kém. Vì thế, năm 1980, đảng Cộng Sản cầm quyền cải tổ lại chính phủ để thay đổi nhân sự điều hành:

– Thủ tướng vẫn là Phạm Văn Ðồng (29)

– Tố Hữu được cử làm phó thủ tướng đặc trách kinh tế. Tố Hữu tên thật là Nguyễn Kim Thành, bí danh là Lành, sinh tại Huế năm 1920, xuất thân là một nhà thơ, nổi tiếng với bài thơ ca tụng Stalin. Tố Hữu trong suốt mấy chục năm trước thường chỉ công tác trong đảng với những nhiệm vụ văn hóa hay tuyên huấn, nhưng đã được chỉ định đặc trách kinh tế vì Tố Hữu là người tỏ ra rất trung kiên về ý thức hệ, rất tôn phục Liên Xô, và trong giai đoạn này, bộ Chính trị quyết tâm xã hội chủ nghĩa hóa kinh tế theo khuôn mẫu Liên Xô một cách cứng rắn. Ngoài ra, Tố Hữu còn được Lê Duẩn và Lê Ðức Tho nâng đỡ, cho nên hai năm sau, ông ta được đưa vào Bộ Chính Trị, dự trù để thay Phạm Văn Ðồng làm thủ tướng một khi ông này về hưu. (dù ở chức vụ cao, nhiều quyền hành, thơ được học sinh bắt buộc phải học nhiều nhất, nhưng Tố Hữu và đảng Cộng Sản cũng biết giới hạn mà không bao giờ in lại hay phổ biến bài thơ thương mến Staline gấp mười cha mẹ của ông).

– Phạm Hùng thay Trần Quốc Hoàn làm bộ trưởng công an. Phạm Hùng, bí danh Bảy Cường, người tỉnh Bến Tre. Sau Hiệp Ðịnh Genève, đóng vai một đại tá phục vụ trong phái đoàn Bắc Việt tại Ủy Hội Kiểm Soát Ðình Chiến, sau đó trốn vào bưng làm chủ tịch Trung Ương Cục Miền Nam, là ủy viên Bộ Chính Trị duy nhất phục vụ tại miền Nam.

– Nguyễn Cơ Thạch thay Nguyễn Duy Trinh trong chức vụ bộ trưởng Bộ Ngoại Giao. Nguyễn Cơ Thạch là một nhà ngoại giao giỏi tiếng Anh, tiếp xúc nhiều với thế giới bên ngoài nên đầu óc tương đối cởi mở, được cử lên thay Nguyễn Duy Trinh trong thời gian mà Việt Nam đang bị cô lập sau khi Việt Nam đem quân sang chiếm đóng Căm Pu Chia

– Văn Tiến Dũng thay Võ Nguyên Giáp làm bộ trưởng Quốc Phòng. Võ Nguyên Giáp bị Lê Duẩn ganh ghét nên đã bị chèn ép và mất dần uy thế. Năm 1973, nhân sự thất bại của trận chiến 1972, Lê Duẩn gạt Võ Nguyên Giáp ra khỏi chức Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Ðội. Năm 1980, Võ Nguyên Giáp mất luôn chức ủy viên Bộ Chính Trị và bộ trưởng Bộ Quốc Phòng. Kể từ đó, Võ Nguyên Giáp chỉ còn được giao cho những chức vụ không quan trọng như chủ tịch Ủy Ban Khoa Học hay Ủy Ban Phòng Ngừa Sinh Sản.

– Nguyễn Lâm thay Lê Thanh Nghị làm chủ tịch Ủy Ban Kế Hoạch Nhà nước. Khả năng chính của Lê Thanh Nghị là trong những năm chiến tranh, mỗi năm cầm bản danh sách những vật dụng hay quân dụng cần thiết sang Trung Hoa xin viện trợ. Sau 1975, Trung Hoa đã trở nên thù nghịch nên Lê Thanh Nghị đã không còn cần thiết nữa.

– Ðinh Ðức Thiện (em Lê Ðức Tho) (30) thay Phan Trọng Tuệ làm Bộ Trưởng Bộ Giao Thông Vận Tải. Phan Trọng Tuệ từng là chính ủy Quân Khu IX ở miền Nam trước 1954. Con rể Phan Trọng Tuệ là Nguyễn Khánh Toàn, sau này là thứ trưởng công an. Chính Phan Trọng Tuệ, vào những năm cuối thập niên 1940, đã cho Phòng Chính Trị của Quân Khu IX phổ biến thông tư đặc biệt cho phép Phan Trọng Tuệ, Lê Ðức Thọ và Lê Duẩn được lấy thêm vợ (31)

– Trần Hữu Dực thay Vũ Tuân ở Bộ Công Nghiệp Nhẹ.

Ngoài ra, ở các bộ khác như:

– Bộ Trưởng Xây Dựng: Ðồng Sĩ Nguyên đã thay Ðỗ Mười từ 1977 để cho Ðỗ Mười vào miền Nam, chỉ đạo việc cải tạo công thương nghiệp.

– Bộ Trưởng Bộ Lương Thực: Hồ Viết Thắng (32) thay Ngô Minh Loan từ 1979.

– Bộ Trưởng Nội Thương: Trần Phương (từng là trợ lý của Lê Duẩn) thay Hoàng Quốc Việt từ 1981.

– Bộ Trưởng Văn Hóa Thông Tin: Nguyễn Văn Hiếu (thứ trưởng là Trần Ðộ (33), kiêm nhiệm bí thư đảng ủy).

– Bộ Trưởng Thương Binh Xã Hội: Dương Quốc Chính. Dương Quốc Chính từng là Bộ Trưởng Nông Nghiệp trước năm 1965. Trước đó là 1 trong 11 người được phong tướng đầu tiên trong quân đội, dưới tên Lê Hiến Mai (xin xem chú thích (34) về lý do cái bí danh này).

– Huỳnh Tấn Phát của MTGPMN cũ được làm chủ tịch Ủy Ban Xây Dựng Cơ Bản Nhà Nước.

Nội các này đã gần như không thay đổi cho đến đại hội đảng lần thứ V.

Ðại hội IV được cử hành trong khi thế đang lên sau chiến thắng năm 1975, cùng một lúc với sự bành trướng thế lực của Liên Xô trên toàn thế giới. Vì thế, những nhà lãnh đạo Cộng Sản Việt Nam lúc đó hoàn toàn tin tưởng rằng chủ nghĩa Mác-xít Lên-nin-nít bách chiến bách thắng, sức mạnh của “ba dòng thác cách mạng” dưới sự lãnh đạo của Liên Xô là một sức mạnh long trời long lở đất đang trên đường nhuộm đỏ toàn cầu. Tin tưởng vào hậu thuẫn Liên Xô, họ đe dọa các nước lân bang, đặt điều kiện khi Hoa Kỳ ngỏ ý muốn bang giao, coi thường dư luận thế giới để chiếm đóng Căm Pu Chia và ngang nhiên thách đố và đương đầu với Trung Hoa. Tất cả những chính sách đó dù đã đưa kinh tế Việt Nam vào một tình trạng thảm hại, đời sống nhân dân thêm khốn khó, nhưng chính quyền Việt Nam vẫn cuồng tín tin rằng khó khăn chỉ là tạm thời, thuận lợi là chủ yếu. Với tinh thần cương quyết xây dựng xã hội chủ nghĩa, đảng Cộng Sản Việt Nam chuẩn bị họp Ðại Hội Ðảng Lần Thứ V.

.

_____________

Chú thích:

1. Thái độ của Phạm Văn Ðồng khi Dự Hội Nghị Tích Lan: trích trong bài Passing Of An Area của Seah Chiang Nee từ www.littlespeck.com/The Past/Cpast-Viet-870102.htm

2. Bộ máy cai trị của Lê Duẩn và Lê Ðức Tho: tài liệu của ông Trần Nhu, một nhà sử học ở Hà Nội hiện định cư tại Hoa Kỳ (trong website Vietnamexodus). Trưởng ban trong Trung Ương Ðảng ăn lương bậc 9, cấp bậc ngang bộ trưởng nhưng quyền thế nhiều khi lớn hơn bộ trưởng, chẳng hạn trưởng ban Thông Tin Văn Hóa Ðảng quyền thế hơn bộ trưởng Thông Tin Văn Hóa. Trong số những người này, có ông Nguyễn Trung Thành trong những năm 1960 đã cùng Ðại Tá Kinh Chi thuộc cục bảo vệ quân đội và Ðại Tá Dương Thông (sau là trung tướng) thuộc Bộ Công An theo lệnh Lê Duẩn và Lê Ðức Tho bắt bớ, giam hãm những người trong vụ án xét lại. Dương Thông là em vợ của Lê Duẩn.

3. Nguyễn Chí Thanh: từng là ủy viên xứ ủy Trung kỳ. Tới 1948 được cử làm chủ nhiệm Tổng Cục Chính Trị Quân Ðội, rất thân cận với Lê Duẩn và Tố Hữu. Vào Nam chỉ đạo chiến tranh từ 1964 đến 1967 thì chết sau khi về Bắc. Có lẽ trong hồ sơ lý lịch xét sau năm 1975, cho thấy Nguyễn Chí Thanh khi bị Pháp bắt thời trước 1945 đã cung khai ra đồng bọn nên sau này Nguyễn Chí Thanh đã không được vinh danh rầm rộ như những người khác. (Chỉ có 1 con đường ở Sàigòn ngay sau 1975 lỡ được đặt tên Nguyễn Chí Thanh nên được giữ lại).

4. Sự ganh ghét giữa Lê Duẩn và Võ Nguyên Giáp: đọc Mặt Thật của Bùi Tín theo đó Lê Duẩn còn có lần chê Võ Nguyên Giáp “nhát như thỏ đế.” Không những đã đè đầu và hạ nhục Võ Nguyên Giáp, Duẩn và Thọ còn coi thường cả Hồ Chí Minh. Nhật ký của Nguyễn Văn Trấn, ủy viên Trung Ương Ðảng, kể lại lời Bùi Công Trừng nói là trong một hội nghị, Hồ Chí Minh muốn có ý kiến đều bị Lê Ðức Thọ gạt đi “bác hãy để cho anh em người ta nói đã mà.” Ung Văn Khiêm, cựu Bộ Trưởng Ngoại Giao, vì ký thông cáo chung với Novotny của Tiệp Khắc thiên về lập trường Liên Xô nên bị phê bình đã phân trần là trước đó Hồ Chí Minh chẳng những đã đồng ý với ông ta mà còn viết thêm lời bàn trên bản thảo. Ung văn Khiêm nói với Bùi Công Trừng “tao nghĩ bản thảo ấy đưa ra không phân bua được gì cho tao, mà chỉ làm thớt cho Sáu Thọ băm ông cụ.” Nhà văn Vũ thư Hiên cũng kể lại là Lê Liêm, cựu chủ nhiệm tổng cục Chính trị, có lần dự định đề ra một kế hoạch, hỏi ý Hồ Chí Minh và được đồng ý, nói là cứ đưa ra hội nghị và ông ta sẽ hỗ trợ, nhưng khi đưa ra, bị nhóm Duẩn và Thọ chỉ trích, thì Hồ Chí Minh làm lơ, ngó qua chỗ khác. Với danh vị của Hồ Chí Minh, chắc ban tổ chức của Lê Ðức Tho đã nắm được điều gì trong lý lịch (có thể là vụ cụ Phan bội Châu bị bắt, những lăng nhăng tình ái…) khiến Hồ Chí Minh phải ngồi yên để nhóm Duẩn, Thọ thao túng trong nhiều năm.

5. Tôn Ðức Thắng nhờ tuổi tác và không bon chen nên được làm Chủ tịch nhà nước sau khi Hồ Chí Minh chết. Xuất thân là công nhân, sau đó trong thế chiến thứ nhất làm thủy thủ trên một tàu chiến Pháp, được đảng Cộng Sản Việt Nam mô tả là một người “giản dị, vĩ đại.” Sử gia Christoph Giebal khi viết về Tôn Ðức Thắng cũng công nhận ông ta là một người giản dị, không tham vọng, nhưng chưa chắc là vĩ đại, vì mỗi ngày bộ máy tuyên truyền càng tạo thêm nhiều chi tiết về tiểu sử của ông. Mới đầu, đảng Cộng sản nói là ông ở tham dự vào cuộc nổi lọan ở Hắc Hải (năm 1907, một tàu Pháp từ chối không chịu nghe lệnh cấp trên để trợ giúp đàn áp phong trào công nhân nổi lọan ở Liên Xô). Những năm 1950, thì đảng nói thêm là ông là người cắm cờ Cộng sản trên con tàu đó, bây giờ đảng lại đôn ông lên làm một trong những người lãnh đạo phong trào nổi lọan. Trong suốt mấy chục năm, nhiều phóng viên Liên Xô đã nhiều lần hỏi ông về những chi tiết trong vụ này nhưng ông đều trả lời là ông không nhớ.

6. Mai Chí Thọ, sau 1975 là trùm công an ở miền Nam, chiếm hữu một tòa biệt thự rông lớn ở Sài gòn (tòa đại sứ Thụy Sĩ trước kia). Ðến 2006, khi không còn quyền hành, mới viết thư góp ý trong dịp chuẩn bị đại hội đảng lần thứ X là những người trong Liên minh Dân chủ “khi cần chúng ta lấy ra dùng, khi không cần, chúng ta gạt ra.” Thật ra những người này, khi chính quyền tịch thu nhà của những người di tản hay bị đuổi đi kinh tế mới đều được cấp cho mỗi người một căn nhà khang trang hơn, kể cả đám Vũ Hạnh, Lữ Phương, Thái Bạch…

7. Khoảng hơn 10 năm sau, Lý Quí Chung có viết một bài báo, kể lại chuyện học chính trị cùng với sinh viên. Khi làm bài, Lý Quí Chung gò lưng so sánh Mác với người này người kia để cuối cùng kết luận Mác là số 1, nhưng kết quả điểm lúc nào cũng hạng chót. Lý Quí Chung hỏi mấy cô sinh viên làm bài ra sao, mấy cô cười phá lên và nói là tài liệu đưa ra sao, mấy cô chép y trang lại là được điểm hoàn toàn. Giọng văn của Lý Quí Chung trong bài này là để phân trần thiện chí học tập của mình mà không được chiếu cố chứ không phải có ý chê trách lối giảng dạy. Cựu Ðại Tá Dương Hiếu Nghĩa kể lại là mấy ngày sau 30-4-75, ông đến nhà Ngô Công Ðức, đúng lúc công an đến bắt Ngô Công Ðức vì tội “phải làm lớn với Mỹ ngụy nên trong nhà mới có đài (điện thoại).” Gia đình phải chạy chọt nên Ðức mới được thả ra.

8. Thích Huyền Quang: tên thật Lê Ðình Nhân sinh năm 1919. Bắt đầu bị bắt năm 1977 vì phản đối chính sách đàn áp tôn giáo và chống lại việc sát nhập Giáo hội Việt Nam Thống nhất vào giáo hội nhà nước. Năm 1982 bị đày ra chùa Hội Phước, Quảng Ngãi. Năm 1992, được thượng tọa Thích Ðôn Hậu viết chúc thư công nhận là Tăng Thống Viện Hóa Ðạo nhưng công an vào chùa tịch thu và giấu mất chúc thư. Mấy năm trước, Phan Văn Khải và gần đây hơn, Lê Hồng Anh có đến thăm thượng tọa, với mục đích tuyên truyền và ly gián Thượng Tọa Huyền Quang với Quảng Ðộ.

9. Thích Quảng Ðộ: Tên thật là Ðặng Phúc Tuệ, sinh năm 1928 là tổng thư ký Viện Hóa Ðạo. Cùng bị bắt một lượt với Thượng Tọa Huyền Quang. Năm 1982, thượng tọa bị đày ra Thái Bình, quản chế tại ngôi chùa Long Khánh. Ông tự ý trở lại Sàigòn năm 1992, tiếp tục đấu tranh cho tự do tôn giáo và lại bị kết án tù 5 năm. Trong đêm đầu tiên ở chùa Long Khánh, thượng tọa đã làm mấy câu thơ:

Dưới án quyển kinh sâu cuốn tổ
Trên tòa tượng Phật nhện giăng tơ
Câu đối mối xông mùn đắp kín
Hoành phi mọt đục bụi tre mờ

Thầy của ông, Thượng Tọa Thích Ðức Hải bị cộng sản bắt và xử tử năm 1946 vì bị nghi là Quốc dân đảng.

10. Nguyễn văn Thuận: cháu của Tổng Thống Diệm, trước 1975 phụ tá Tổng Giám Mục Nguyễn văn Bình, sau đó bị đưa ra Bắc và ở tù 12 năm. Khi giám mục qua La Mã công tác, chính quyền không cho ông trở về. Tòa thánh giữ ông lại, sau đó được thăng Hồng Y trước khi ông mất.

11. Vụ David Trương làm gián điệp: dù chỉ ăn cắp được những tài liệu không quan trọng, nhưng vì không quan trọng nên có thể công khai đưa ra tòa làm bằng chứng. Sau khi bị kết tội, David Trương sang định cư ở Hòa Lan (Brother Enemy – Nayan Chanda). Một người giúp đỡ chính phủ Mỹ trong vụ án này là bà Yung Krall (Ðặng mỹ Dung).

12. Thích Trí Siêu: tên thật Lê Mạnh Thát, đi tu năm 15 tuổi. Ðỗ tiến sĩ triết học tại Ðại Học Wisconsin, trở về dạy Ðại Học Vạn Hạnh, cùng Thích Tuệ Sĩ soạn cuốn Tự Ðiển Phật Giáo Việt Nam. Bị bắt giam ở Chí Hòa từ 1984 đến 1988 mới ra tòa và bị lên án tử hình. Nhờ quốc tế can thiệp, án giảm còn 20 tù, bị giam ở Z230, mấy năm sau được thả ra nhưng vẫn bị quản thúc hay theo dõi. Trí Siêu và Tuệ Sĩ đã hợp soạn cuốn Tự Ðiển Phật Giáo Việt Nam.

Thích Tuệ Sĩ, tên thật Phạm Văn Thương, đi tu từ nhỏ, tốt nghiệp Ðại Học Vạn Hạnh năm 1965. Rất giỏi tiếng Pháp, Anh, Hán, Ðức, Pali, Phạn. Xuất bản những cuốn: Tô Ðông Pha, Những Phương Trời Viễn Mộng, Ðại Cương Về Thiền Quán… Cùng với Trí Siêu, Tuệ Sĩ bị bắt năm 1984 và bị kết án tử hình năm 1988 với tội danh mưu toan lật đổ chính phủ. Do áp lực quốc tế, án cũng được giảm xuống 20 năm tù và bị giam tại trại A, Phú Yên. Tuệ Sĩ là một tấm gương kiên cường. Tháng 8, 1998, chính quyền bảo ông xin ân xá. Ông trả lời “Không ai có quyền xét xử tôi. Không ai có quyền ân xá tôi.” Hãy đọc những lời thơ xanh mướt của ông:

Tang thương một giải tóc huyền
Bãi dâu ngàn suối mấy miền hoang vu
Gửi thân gió cuốn sa mủ
Áo xanh cát trắng trời thu muộn màng

Ðến khi ở trong tù thì thơ của ông đầy cảm khái:

Phụng thử ngục tù phạm
Cúng dường Tối Thắng Tôn
Thế gian trường huyết hận
Bình bát lệ vô ngôn

Tuệ Sĩ được ra khỏi tù tháng 9 năm 1998, nhưng cho tới nay, ông vẫn như bị giam lỏng ở chùa Già Lam.

13. Võ Ðại Tôn: Cựu đại tá, sau năm 1975 định cư bên Úc, khoảng năm 1980 cùng một số đồng chí vượt biên trở về Việt Nam và bị bắt. Ông giả bộ hợp tác và được chính quyền Cộng sản đem ra trình diện báo chí. Nhưng trong cuộc họp báo, ông lớn tiếng tố cáo chế độ độc tài và đàn áp nhân dân. Thứ Trưởng Nội Vụ Lê Thanh Công và Trung Tướng Công An Dương Thông phải vội vàng kết thúc ngay cuộc họp báo.

14. Hoàng Cơ Minh: cựu phó đề đốc, trước 1975 là tư lệnh vùng II duyên hải. Sau khi di tản, năm 1981 thành lập Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất Giải Phóng Việt Nam, đặt mật khu ở biên giới Thái Lan. Tháng 7 năm 1987, khi cùng chiến hữu trên đường xâm nhập vào Việt Nam thì bị chận đánh ở biên giới Việt Lào. Trong trận đánh, bộ đội Cộng Sản Việt Nam huy động cả pháo binh và phi cơ. Ông Hoàng Cơ Minh bị tử trận cùng một số chiến hữu.

15. Hiện tại, ở Việt Nam có khoảng 600 tờ báo. Tất cả đều do chính quyền kiểm soát. Tổng biên tập đều phải là đảng viên. Hai tờ báo chính của chính quyền là Nhân Dân, có từ 1951, phần nhiều chỉ đăng những nghị quyết, những thông cáo hay những lời tuyên bố của những lãnh tụ, và tờ Quân Ðội Nhân Dân, cũng đăng tin quốc tế và quốc nội nhưng nhấn mạnh về quân sự. Ngoài ra, còn có tờ Học Tập, sau 1976 đổi tên là Tạp Chí Cộng Sản phát hành mỗi tháng là tiếng nói của đảng. Cũng có một số báo ngoại ngữ tiếng Anh, Pháp, Hoa, Căm Pu Chia… trong đó có tạp chí Vietnam Courrier viết về những vấn đề chính trị, văn hóa, tạp chí Vietnam Foreign Trade về thương mại. Ngoài ra là những báo của những đoàn thể (Phụ Nữ, Công Ðoàn), những địa phương hoặc những ngành nghề. Tờ báo tương đối mạnh dạn là tờ Tuổi Trẻ. Tờ báo có nhiều độc giả là tờ Công An, nhờ khai thác và ly kỳ hóa những vụ án tống tiền, lường gạt, hiếp dâm; và Tờ báo bán ế nhất là tờ Nhân Dân dù các cơ quan đoàn thể đều bắt buộc phải mua và trong thời kỳ khan hiếm giấy, người dân mua chỉ để gói hàng hay vệ sinh cá nhân (trích lời của cựu Linh Mục Nguyễn Ngọc Lan trong Shadows and Wind của Robert Templer).

16. Về việc lấy lòng chính quyền, khi tác giả còn ở Việt Nam thì ở tờ Tin Sáng, cái gì chính quyền làm cũng được ca tụng, từ cải tạo công thương nghiệp đến việc xây nhà vệ sinh. Cả đến những bài về khoa học viết về khoai lang, khoai mì, rau muống… cũng đều được Giáo Sư Phạm Hoàng Hộ ca tụng là bổ dưỡng vô song. Những tác giả thi nhau lấy lòng chính quyền, chẳng hạn ông Trần Kim Thạch, con của nhà văn Thiên Giang, trước 1975, khi những hãng dầu bắt đầu tìm kiếm dầu hỏa ở ngoài khơi biển Ðông, có viết một bài báo nói là về phương diện địa chất không thể có dầu ở biển Ðông. Dĩ nhiên các hãng dầu hỏa không ai biết về bài “khảo cứu khoa học” của ông và đã tìm ra 2 giếng dầu Thanh Long và Bạch Hổ. Sau này, ông viết báo phân trần là ông biết rõ ngoài biển Ðông có dầu nhưng phải viết vậy để đế quốc Mỹ không khai thác.

17. Hoàng Văn Hoan vào tháng 7 năm 1979, khi đó đã mất chức ủy viên Bộ Chính Trị nhưng còn chức phó chủ tịch quốc hội, viện cớ sang Ðông Ðức chữa bệnh, khi máy bay tạm ngừng ở Karachi, Hồi Quốc, bỏ trốn sang Trung Hoa, được Trung Hoa giúp thành lập một “Mặt Trận Giải Phóng” chống lại Lê Duẩn. Viết cuốn hồi ký “Giọt Nước Trong Biển Cả.” Sau đó chết vì ung thư phổi.

18. Chu Văn Tấn: gốc người Tầy, làm Bộ Trưởng Quốc Phòng một thời gian ngắn trước Võ Nguyên Giáp. Sau này bị bắt và có lẽ chết trong tù. Sau khi chết nhiều năm, được đảng ngó lại, công nhận có đóng góp nhưng “đã phạm sai lầm” vào những năm cuối và vẫn bị chôn ở một nghĩa địa hạng chót theo tiêu chuẩn đảng..

19. Thái độ của Lê Duẩn (nhận làm em nhỏ đối với Trung Hoa, khom lưng cúi đầu chào Brezhnev hai lần): Brother Enemy, Nayan Chanda

20. Chính sách trục xuất người Hoa và tổ chức vượt biên lấy vàng được gọi là “phương án 2.” Một trong những thuyền nhân là Trương Như Tảng, cựu Bộ Trưởng Tư Pháp của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam. Một người vượt biên khác là Nguyễn Công Hoan, một dân biểu nằm vùng trước 1975, sau 1975 cũng được chính quyền Cộng sản cho ra làm đại biểu quốc hội một nhiệm kỳ.

21. Tài liệu về hội nghị đảng Cộng Sản Việt Nam năm 1951 đã được ghi nhận trong cuốn “Việt Nam Máu Lửa” của Nghiêm Kế Tổ in trong thập niên 1950. Nghiêm Kế Tổ là một đảng viên Quốc Dân Ðảng và rất có uy tín với Quốc Dân Ðảng Trung Hoa. Tuy ông đã giúp đỡ nhiều cán bộ Cộng sản (kể cả Hồ Chí Minh) để được tha khỏi tù, nhưng vẫn bị gán tội là “phản động” và bị Hoàng Văn Hoan gọi là “đặc vụ của Tưởng Giới Thạch.”

22. Về những chi tiết quân sự trong cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc (Hoa Việt) và Tây Nam (với Căm Pu Chia), xin đọc Chiến Tranh Ðông Dương III của cùng tác giả, nhà xuất bản Văn Nghệ.

23. Về phương diện quân sự, Việt Nam được chia làm tám quân khu: quân khu I vùng Cao Bằng, Thái Nguyên, quân khu II vùng Lai Châu, Lào Kay, quân khu III vùng châu thổ sông Hồng, quân khu IV vùng Nghệ Tĩnh, Huế, Quân khu V vùng cao nguyên và duyên hải Nha Trang, quân khu VII vùng Sài gòn, quân khu IX vùng châu thổ sông Cửu Long. Ngoài ra còn có những đặc khu thủ đô, đặc khu thành phố HCM, đặc khu Quảng Ninh

24. Theo Nayan Chanda, trong chiến tranh với Căm Pu Chia, Lê Trọng Tấn là tổng tham mưu phó quân đội, đóng Bộ Tư Lệnh ở MACV cũ trong Tân Sơn Nhất, giám sát cuộc hành quân, nhưng theo ông Lê Tùng Minh (website Hưng Việt), tư lệnh là Lê Ðức Thọ, Phạm Hùng Chính Ủy, Trần Xuân Bách Phó Chính Ủy, Lê Ðức Anh Là Tham Mưu Trưởng, Chu Huy Mân Tư Lệnh Phó. Có lẽ Lê Ðức Thọ giám sát cả về chính trị lẫn quân sự, còn Lê Trọng Tấn là tư lệnh về quân sự một thời gian ngắn. Khi Trung Hoa tấn công Việt Nam, cả Tấn lẫn Mân đều trở về Bắc, giao trách nhiệm cho Lê Ðức Anh. Thời gian này, Ðỗ Mười cũng phụ tá cho Lê Ðức Thọ

25. Việc Cộng sản Bắc Việt cho Lê Thanh Nghị mỗi năm muối mặt đi xin viện trợ và bị coi thường: Nayan Chanda trong Brother Enemy.

26. Theo Giáo Sư Nguyễn Như Cương, người đầu tiên vào Nam phụ trách tìm cách kết hợp kinh tế hai miền là Ðinh Ðức Thiện và Thiện đã lập một ban tư vấn kinh tế gồm những giáo sư đại học miền Nam như Vũ Quốc Thúc, Nguyễn Xuân Oánh, Lê Văn Sĩ, Châu Tiến Khương, Dương Kích Nhưỡng… Nhưng cũng như hội Trí Thức Yêu Nước, ban này chỉ để tỏ ra nhà nước coi trọng trí thức, và những người tham dự, thật ra cũng chỉ để kiếm “ô dù” che thân. Nguyễn Văn Hảo không tham dự những nhóm này, có lẽ kiếm được một ô dù khác là Nguyễn Văn Linh. Sau đó vài tháng, Thiện được triệu hồi về Hà Nội làm Bộ Trưởng Giao Thông.

27. Căn cứ Liên Xô ở Cam Ranh, theo Nayan Chanda

28: Vietnam People Army của Douglas Pike

29. Phạm Văn Ðồng là thủ tướng lâu nhất thế giới tuy tự biết không làm được việc gì và nhiều lúc nói là thấy “xấu hổ,” nhưng vẫn ngồi lỳ ở chức vụ đến nỗi một cán bộ Cộng sản lâu năm là Trần Văn Giàu đã mai mỉa “cái đít nó biết nhớ cái ghế.”

30. Ðinh Ðức Thiện (tên thật Phan Ðình Dinh) là em ruột Lê Ðức Thọ, sau này chết vì súng bị cướp cò khi đang đi săn nhưng cũng có tin là bị con trai bắn chết (người con trai này hồi nhỏ bị ông ta đánh đập tàn nhẫn nên bị hư mắt và tâm thần). Tin chính thức thì nói là bị “xe đụng” (khi làm Bộ Trưởng Giao Thông!)

31. Tài liệu của ông Vi Thanh trong “Lớn Lên Với Ðất Nước”

32. Hồ Viết Thắng từng làm đại diện Tổng Bộ Việt Minh trong Nam trước 1954, bị hạ tầng công tác cùng với Trường Chinh trong Cải cách Ruộng đất. Dù thuộc phe Trường Chinh, sau này được phục hồi làm Bộ Trưởng Lương Thực vì có con gái là Hồ Thị Nghĩa, một bác sĩ, có con với Lê Duẩn.

33. Trần Ðộ: Tên thật là Tạ Ngọc Phách, trước 1954 làm chính ủy trung đoàn Sông Lô, rồi sư đoàn 312, sau 1954 là chính ủy quân khu hữu ngạn sông Hồng trước khi vào Nam.

34. Bí danh Lê Hiến Mai của Dương Quốc Chính rất lý thú. Tác giả Vy Thanh, một cựu đảng viên CS, trong cuốn Lớn Lên Với Ðất Nước, kể lại là trong một buổi họp ở quân khu IX trong miền Nam, dưới sự chủ tọa của Lê Duẩn và Lê Ðức Thọ, Dương Quốc Chính muốn có được một bí danh họ Lê cho giống hai người kể trên nên đã nhờ một người ngồi bên cạnh đặt giùm. Người này thấy bộ răng của Dương Quốc Chính mới đặt hộ cho cái bí danh Lê Hiến Mai. Phải nhiều năm sau, Dương Quốc Chính mới biết thâm ý của người kia nên từ đó, đã từ bỏ cái bí danh đó. Lê Hiến Mai là một trong 11 cán bộ quân sự được phong tướng đầu tiên.

.

Thâm cung bí sử sau Ðại Hội Ðảng…

Cũng thời gian đó, một số cán bộ miền Nam bất mãn trước những biện pháp đàn áp nhân dân của chế độ nên đã cùng Nguyễn Hộ lập ra “Câu Lạc Bộ Những Người Kháng Chiến Cũ” (sở dĩ được gọi là câu lạc bộ vì cộng sản không cho lập đảng hay hội đoàn không thuộc nhà nước (10), đảng Dân Chủ được đảng Cộng Sản cử ông Hoàng Minh Chính đứng ra thành lập ngày 30-6-1944 để làm bù nhìn cho đảng Cộng Sản, dù đã an phận chịu sự kiểm soát của Mặt Trận Tổ Quốc cũng bị giải tán trong năm 1988, tổng thư ký của đảng này là Nghiêm Xuân Yêm tuyên bố là “đã làm tròn nhiệm vụ lịch sử”). Nguyễn Hộ từng là đảng viên Cộng Sản từ 1937, từ năm 1964 đến 1975 phụ trách công tác địch vận. Sau 1975 đã giữ nhiều chức vụ quan trọng trong vùng Sài Gòn. Tuy mới đầu, những đảng viên cựu cán bộ này chỉ muốn cải thiện lại đường lối cai trị của Ðảng cũng như của phẩm chất cán bộ, nhưng vì không một chính quyền cộng sản nào muốn có một đảng hay hiệp hội nào dù non yếu tồn tại song song với mình, nhất là trước cái gương của công đoàn Ðoàn Kết bên Ba Lan, đã từng phát triển và rồi lấn át được đảng Cộng Sản, cho nên câu lạc bộ của Nguyễn Hộ mới đầu còn bị cảnh cáo, sau đó bị gán cho là phản động, nhận tiền đế quốc. Tờ nội san “Truyền Thống Kháng Chiến” sau ba số thì bị đóng cửa. Ðồng thời Ðảng cho thành lập một hội Cựu Chiến sĩ Việt Nam khác để cạnh tranh và làm phân hóa câu lạc bộ. Những cán bộ tên tuổi của câu lạc bộ bị mua chuộc, lôi kéo, trong đó, có Trần Văn Giàu, một trong những sáng lập viên của câu lạc bộ, sau khi bỏ sang hội Cựu Chiến Sĩ được cho sang Pháp rong chơi nhiều tháng. Trần Văn Trà thì được thông gia là Võ Chí Công dụ sang cho làm phó chủ tịch của hội, còn Trần Bạch Ðằng thì hy vọng sẽ được Nguyễn Văn Linh nâng đỡ. Cũng như các hội đoàn khác của nhà nước, hội Cựu Chiến Sĩ này được đặt dưới quyền giám sát của Mặt Trận Tổ Quốc. Những người đứng đầu câu lạc bộ không chịu khuất phục như Nguyễn Hộ, Tạ Bá Tòng, Ðỗ Trung Hiếu cũng bị bắt giữ. Tạ Bá Tòng trước kia phụ trách trí vận dưới quyền Nguyễn Hộ, từng khuyến dụ được thú y sĩ Phạm Văn Huyến và con gái của ông ta là Phạm Thị Thanh Vân (vợ Ngô Bá Thành ) vào Mặt Trận GPMN… Thất vọng với chủ nghĩa Cộng Sản, Nguyễn Hộ đã viết “Tôi phải thú nhận là chúng tôi đã chọn nhầm lý tưởng chủ nghĩa Cộng Sản. Bởi vì, trong suốt 60 năm cách mạng cộng sản, nhân dân Việt Nam đã phải gánh chịu biết bao hy sinh để chẳng được cái gì: đất nước vẫn nghèo, nhân dân vẫn không đủ ăn đủ mặc, không có tự do, không có dân chủ.”

Tương tự như thế, chính quyền Việt Nam cũng lập ra một giáo hội Phật Giáo Việt Nam thuộc nhà nước, cạnh tranh với Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, đồng thời cũng tìm cớ bắt giam hai vị cao tăng của giáo hội này là hai Thượng Tọa Huyền Quang và Quảng Ðộ. Ðể bịt miệng Thượng Tọa Quảng Ðộ, có tin Mai Chí Thọ đã có lần dụ dỗ thượng tọa cho về trụ trì chùa Quán Sứ ở Hà Nội nhưng thượng tọa từ chối. Ngoài ra, họ cũng bắt luôn hai nhà Phật học thông thái là Thượng Tọa Trí Siêu và Thượng Tọa Tuệ Sĩ ở chùa Già Lam, rồi lên án tử hình ngày 30-9-1988 về tội “âm mưu lật đổ chính phủ.” Trước sự phản đối của quốc tế, án tử hình sau đó được giảm xuống còn 20 năm tù. Nhiều đại diện tôn giáo khác như linh mục Nguyễn Văn Lý, ông Lê Quang Liêm (Hòa Hảo), Phạm Công Trí (Cao Ðài) cũng bị bắt giữ.

Riêng Bác Sĩ Nguyễn đan Quế (11), từng bị bắt năm 1978 và bị tù 10 năm, sau khi bị bắt lại vì thành lập Cao Trào Nhân Bản và bị đưa ra tòa ngày 29-4-91, ông điềm tĩnh nói với chánh án là họ không có tư cách để xét xử ông. Khi công tố viên đọc bằng chứng là Tuyên Ngôn Cao Trào Dân Chủ, nhiều đoạn chỉ trích chính quyền của ông bị sửa đổi, Bác Sĩ Quế đã phải liên tiếp chỉnh lại “Anh phải đọc cho đúng những gì tôi viết.” Ông bị tòa nhanh chóng tuyên án 20 năm tù. Hòa Thượng Quảng Ðộ, bị đày ra ngoài Bắc từ 1982, mười năm sau, ông tự ý trở về Sài Gòn và sau đó liên tiếp bị sách nhiễu hoặc quản thúc tại gia. Mấy năm sau, Hòa Thượng Thích Ðôn Hậu, người được quân Bắc Việt đem ra Bắc năm 1968 làm dụng cụ tuyên truyền viên tịch. Trước khi chết, Thượng Tọa Ðôn Hậu gửi thư thông báo khắp nơi là đã công nhận Thượng Tọa Huyền Quang lên thay làm tăng thống Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất mà không công nhận hội Phật Giáo nhà nước. Chính quyền tịch thu bức thư, nói bức thư đó là giả, không cho Hòa Thượng Huyền Quang dự đám tang. Thượng Tọa Thích Trí Tựu, trụ trì ở chùa Linh Mụ, khi xác nhận thư đó là thật cũng bị chính quyền bắt và cùng các Hòa Thượng Hải Thanh, Hải Chánh ở tù tại Phủ Lý.

Về thông tin báo chí, sau một thời gian “cởi trói” ngắn ngủi, trước những biến cố bất lợi xảy ra ở Liên Xô và Ðông Âu, đồng thời ở trong nước, có những dấu hiệu phản kháng và xúc phạm vào quyền uy tối thượng của đảng và các đảng viên cao cấp (chẳng hạn bài phóng sự “Cái Ðêm Hôm Ấy Ðêm Gì” của ký giả Phùng Gia Lộc, viết về những hành động tàn ác thiếu tình người của những cán bộ tỉnh Thanh Hóa khi đi thu thuế dân nghèo đăng trên báo Văn Nghệ, đã được quần chúng hưởng ứng đến nỗi bí thư tỉnh ủy tỉnh Thanh Hóa là Hà Trường Hoa bị mất chức năm 1988). Vì thế, các nhà lãnh đạo cộng sản, kể cả người hô hào cởi trói là Nguyễn Văn Linh, lại bắt đầu tìm cách trở lại chính sách “trói buộc.” Hơn nữa, một tháng sau khi Nguyễn Văn Linh đi gặp Ceaucescu (chủ tịch nước ở Lỗ Ma Ni) và Honecker (tổng bí thư Ðông Ðức) ở Ðông Âu khoảng cuối năm 1989 về, hai người này một người bị xử tử, một người bị bắt ngồi tù. Vì thế, đa số đảng viên cộng sản cao cấp, từ những ủy viên Bộ Chính Trị đến những ủy viên Trung Ương Ðảng, sợ bị mất quyền lực và có thể bị truy tố nên tìm cách quay về con đường chuyên chính cũ. Ngay cả Nguyễn Văn Linh, người được coi như khai sinh ra “đổi mới” ở Việt Nam, sợ sẽ chịu chung số phận như Ceaucescu nên lại quay về phục hồi những biện pháp đàn áp. Trong một buổi họp của Trung Ương Ðảng, những biện pháp đổi mới bị phê bình là hữu khuynh. Thủ tướng lúc đó là Võ Văn Kiệt vừa mới tạm thời thay Phạm Hùng được vài tháng thì bị Nguyễn Văn Linh cùng Trung Ương Ðảng Cộng Sản buộc phải nhường chức cho một nhân vật bảo thủ hơn là Ðỗ Mười. Theo bà Nguyễn Thị Thi, một đại biểu Quốc Hội của thành phố Hồ Chí Minh, khi Quốc Hội bầu lại thủ tướng, chủ tọa đoàn của Quốc Hội đã ép các đảng viên phải bầu cho Ðỗ Mười lên thay Phạm Hùng nhưng một phần ba đảng viên đã cãi lệnh mà bầu cho Võ Văn Kiệt. Bà Thi từng là giám đốc Công Ty Lương Thực thành phố HCM. Trong những năm 1979, 1980, thành phố bị thiếu lương thực vì nông dân không chịu bán gạo với giá thu mua rẻ mạt của nhà nước, chính bà Thi đã dám “xé rào,” cãi lệnh trung ương, xuống những tỉnh miền Tây mua gạo rồi về bán lại theo giá thị trường.

Trong nội bộ Ðảng, Trần Trọng Tân, một người từng theo Lê Ðức Thọ phụ trách về tuyên huấn ở Căm Pu Chia được cử lên làm trưởng ban Văn Hóa Tư Tưởng của Ðảng để giám sát Trần Ðộ. Trong Ủy Ban Trung Ương Ðảng, Trần Ðộ là một trong những người hiếm hoi dám đưa ra những biện pháp cải cách. Cuối năm 1989, trong bản “Phác Thảo Cương Lĩnh Văn Hóa Việt Nam những năm 1990,” ông đưa ra những điểm rất tiến bộ như: “văn hóa phải dựa trên cơ sở quan niệm đúng đắn về bản chất và chức năng thực sự của nghệ thuật như một tiếng nói bồi đắp lương tri và đạo đức cho xã hội. Thực hiện đầy đủ chính sách tự do sáng tạo, tự do phê bình.” Thấy được những quan điểm này “chệch đường lối,” một số phần tử bảo thủ và cơ hội như Hà Xuân Trường báo cáo ngay lên cho Lê Ðức Thọ, Trần Ðộ sau đó bị phê bình, mất chức để cho Hà Xuân Trường lên thay. Cũng trong tháng 12 năm 1989, đại hội các nhà văn được tổ chức tại Hà Nội. Tuy là đại hội của các nhà văn, nhưng đại hội lại được tổ chức dưới sự chỉ đạo của Trần Trọng Tân, Nguyễn Ðức Tâm và Ðào Duy Tùng. Ngoài ra, lại còn có sự hiện diện của Ðỗ Mười, Lê Ðức Thọ (lúc đó là cố vấn Bộ Chính Trị) và Trung Tướng Công An Dương Thông (12). Dương Thông đến để tố cáo có một số nhà văn nhận tiền để làm tay sai cho nước ngoài nhưng đã không nói được là ai khi bị chất vấn. Tuy trong 330 nhà văn đảng viên, có 180 người (đa số là những nhà văn miền Nam, trừ những người như Trần Bạch Ðằng ), bỏ phiếu để bầu trực tiếp Nguyễn Quang Sáng làm chủ tịch Hội Nhà Văn, nhưng cũng có đến 150 người theo lệnh Ðảng mà muốn ban quản trị bầu một người mà Ðảng đã chọn lựa là Anh Ðức. Tỷ số này cho thấy ngay trong giới cầm bút, một giới tương đối đầu óc phóng khoáng, cũng có một số không ít những phần tử thủ cựu và sợ oai của Ðảng. Tuy Nguyễn Quang Sáng đắc cử, nhưng trong Ban Quản Trị Hội Nhà Văn, đa số vẫn là những người có trong danh sách Ðảng chỉ định. Ðó có lẽ cũng là một thắng lợi chót của Hội Nhà Văn. Những năm sau, chính quyền lại siết chặt quyền kiểm soát thông tin và văn nghệ. Những nhà văn như Dương Thu Hương, Bùi Minh Quốc… bị kiểm soát chặt chẽ hay bị bỏ tù. Dương Thu Hương là người đã viết về những nhũng lạm của chính quyền Cộng sản một cách trực tiếp và can đảm nhất. Cuốn tiểu thuyết “Những Thiên Ðường Mù” xuất bản năm 1988 đã mô tả một giai cấp mới, nhờ ưu quyền mà làm giàu qua tham nhũng hay biển thủ của công (13).

Song song với những biện pháp cải tổ hệ thống kinh tế, sau đại hội VI, Cộng Sản Việt Nam cũng phải bắt buộc thay đổi đường lối ngoại giao. Tháng 7 năm 1987, Hội Nghị Trung Ương Ðảng họp và ra nghị quyết số 2 về ngoại giao gồm những điểm chính:

– Tránh đụng chạm với quân đội Trung Hoa ở vùng biên giới và ở ngoài biển Ðông.

– Ðặt kế hoạch rút quân đội ra khỏi Căm Pu Chia. Việt Nam đã thực hiện việc rút quân từ năm 1986, và cuộc rút quân dự trù hoàn tất vào cuối năm 1989. Song song với việc Việt Nam rút quân, Căm Pu Chia cũng chuyển hướng, thay đổi tên nước, sửa đổi hiến pháp, tuyên bố là một nước trung lập và Phật giáo là quốc giáo. Ðồng thời, Việt Nam chấm dứt việc gọi quan hệ ngoại giao với Ai Lao và Căm Pu Chia là những “quan hệ đặc biệt.”..

– Giảm bớt quân số để tiết kiệm ngân sách

– Bớt ngân sách quốc phòng.

Nghị quyết này dù đã được từng bước thực hiện nhưng được giữ kín cho tới ngày 28-1-90 thì báo Nhân Dân mới tiết lộ. Thi hành tinh thần của nghị quyết, Bộ Ngoại Giao dưới quyền điều khiển của Nguyễn Cơ Thạch, Trần Quang Cơ, Phan Doãn Nam… đã hoàn thành một dự thảo về chính sách ngoại giao mới, được trình bày trong buổi họp Bộ Chính Trị trong tháng 5 năm 1988. Trong những bộ phận chính phủ, ngành ngoại giao là một ngành gồm những người có học, tiếp xúc nhiều với thế giới bên ngoài nên đầu óc cấp tiến hơn. Trước kia, chiều hướng ngoại giao của Cộng Sản Việt Nam là chỉ thân thiện với những nước Cộng Sản và thế giới theo quan niệm chật hẹp của họ cũng chỉ có hai phe, Cộng sản hay Tư bản theo mô hình “hai phe, bốn mâu thuẫn.” Cộng sản là bạn, tư bản là địch. Bộ Ngoại Giao, dưới sự hướng dẫn của Bộ Trưởng Nguyễn Cơ Thạch đã đổi mới “tư duy đối ngoại” bằng chủ trương “đa phương hóa và đa dạng hóa” đường lối ngoại giao để “phá thế bao vây” trong tình trạng cô lập do sự chiếm đóng Căm Pu Chia. Khác với những ủy viên Bộ Chính Trị khác, trong tập san “Quan Hệ Ngoại Giao” năm 1990, Nguyễn Cơ Thạch thẳng thắn công nhận đóng góp quan trọng của chủ nghĩa tư bản trong hai thế kỷ qua, xác nhận sự cần thiết phải hội nhập vào thị trường kinh tế thế giới và nhất là, ông công nhận sự sụp đổ của những nước xã hội chủ nghĩa là do những nguyên nhân nội tại chứ không phải do những âm mưu phá hoại của đế quốc (14).

Vì bản dự thảo mà Nguyễn Cơ Thạch trình bày trong cuộc thảo luận của Bộ Chính Trị tháng 5 năm 1988 có nhiều điểm mới lạ nên đã gặp nhiều chống đối. Cuối cùng, sau những thảo luận gay gắt, bản dự thảo được thông qua ngày 20-5-1988, trở thành nghị quyết 13 của Bộ Chính Trị về ngoại giao, trong đó đề ra những chính sách đối với những đối tượng khác nhau:

– Nhanh chóng giải quyết vấn đề Căm Pu Chia

– Phấn đấu sớm bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc

– Bình thường hóa và cải thiện quan hệ với các nước ASEAN.

– Khôi phục quan hệ với các nước Phương Tây

– Tranh thủ kéo Mỹ đi vào bình thường hóa quan hệ

– Củng cố, tăng cường quan hệ với đồng minh, bạn bè

Theo tinh thần nghị quyết mà Nguyễn Cơ Thạch đưa ra, Việt Nam sẽ giải quyết cho xong vấn đề Căm Pu Chia và hòa giải với Trung Hoa, nhưng đồng thời, phải có một quan hệ ngoại giao quân bình với các nước Asean, Hoa Kỳ và Tây Âu để không bị Trung Hoa chèn ép. Trong chiều hướng này, song song với việc “cởi trói” văn nghệ, đổi mới kinh tế, và để lấy lòng Hoa Kỳ và các nước Tây phương, năm 1988, chính quyền Việt Nam công bố trả tự do cho 2474 tù nhân chính trị, giảm án hai tu sĩ Tuệ Sĩ và Trí Siêu từ tử hình xuống 20 năm tù. Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Thuận cũng được trả tự do sau 13 năm tù đày (Tổng Giám Mục Thuận sau đó qua La Mã và được thăng chức Hồng Y). Hai năm 1987 và 1988 cũng là năm mà Tổng Thống Reagan của Hoa Kỳ lần đầu tiên gửi một sứ giả đặc biệt là Tướng Versey sang Việt Nam hai lần để bàn thảo sơ bộ về những vấn đề giúp đỡ nhân đạo. Tuy nhiên, do nhiều nguyên do, sự thiết lập bang giao với Hoa Kỳ của Việt Nam đã bị chậm trễ thêm mấy năm. Dù nguyên nhân chính khiến Ngoại Trưởng Nguyễn Cơ Thạch bị loại là vì áp lực của Trung Hoa, nhưng những phần tử bảo thủ trong Bộ Chính Trị cũng qui lỗi cho Nguyễn Cơ Thạch là đã thất bại không thuyết phục được Hoa Kỳ bãi bỏ cấm vận dù cho Việt Nam đã rút hết quân đội ra khỏi Căm Pu Chia.

CSVN còn tồn tại là nhờ Gorbachev

Người ta thường nói người khai sinh ra đổi mới ở Việt Nam là Nguyễn Văn Linh. Thật ra, người đó là Gorbachev. Nhờ có Gorbachev, Việt Nam mới phải “đổi mới hay là chết.” Nhờ Gorbachev, Nguyễn Văn Linh mới được làm tổng bí thư. Ðổi mới chỉ là góp nhặt từ cởi mở và tái cấu trúc, còn đa phương và đa dạng hóa ngoại giao chỉ là hậu quả tất yếu của chính sách ngoại giao Thái Bình Dương mới của Liên Xô. Nhờ giải trừ bớt những biện pháp cứng nhắc của hệ thống kinh tế xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế của Việt Nam bắt đầu khá hơn. Tuy nhiên, sự sụp đổ của Liên Xô và Ðông Âu đã khiến Nguyễn Văn Linh cùng đa số đảng viên cầm quyền Việt Nam lo sợ, chùn bước. Hình như những nhà lãnh đạo Cộng Sản Việt Nam lúc nào cũng cần có một hậu thuẫn ngoại bang nào đó để học tập nếu không muốn nói là sùng bái.

Mất đi cái nôi của Cách Mạnh Tháng Mười, họ quay về Ðông Phương Hồng vì Trung Hoa vẫn là một nước xã hội chủ nghĩa, đúng ra là độc đảng. Kể từ 1989, về đối ngoại, họ muốn được kết thân với Trung Hoa bằng mọi giá để làm một chỗ dựa thay Liên Xô, về đối nội, họ cóp nhặt mô hình cai trị của đảng Cộng Sản Trung Hoa, đàn áp dân chủ nhưng mở cửa kinh tế. Kết thúc khóa VI, đảng Cộng Sản Việt Nam họp đại hội đảng lần thứ VII và sẽ loại bỏ Nguyễn Cơ Thạch, bầu lên Ðỗ Mười và Võ Văn Kiệt để thực hiện những điều này.

.

______________

Chú thích:

1. Mai Chí Thọ: tên thật Phan Ðình Ðồng là em ruột của Lê Ðức Thọ (Phan Ðình Khải) và Ðinh Ðức Thiện (Phan Ðình Dinh). Vấn đề giữ gìn tên tuổi dòng họ tổ tiên của những cán bộ Cộng Sản Việt Nam hình như không được coi trọng, vì thế con của Lê Ðức Thọ vẫn có tên là Lê Nam Tiến (sau này là thứ trưởng Bộ Bưu Ðiện).

2. Tài liệu về Trần Xuân Bách và B68 do ông Dương Văn Thương, một cán bộ từng phục vụ ở Căm Pu Chia cùng với Trần Xuân Bách. Ông Thương sau này tỵ nạn ở Ðức.

3. Nguyễn Văn Linh thường nói muốn diệt tham nhũng “phải bắt hai vợ chồng nhà đó trước” (Võ Văn Kiệt và vợ là Phan Lương Cẩm). Một trong những vụ tham nhũng mà Võ Văn Kiệt bị tố cáo là đã thông đồng với bộ Trưởng Năng Lượng Vũ Ngọc Hải trong công tác xây dựng đường cao tốc Bắc Nam. Vũ Ngọc Hải bị kết án 3 năm tù và khi ở tù, mỗi Tết Võ Văn Kiệt đều vào thăm.

4. Vụ khai gian lý lịch của Lê Ðức Anh: thư của Phạm Văn Xô gửi Trung Ương Ðảng. Lê Ðức Anh khai gian để tăng tuổi đảng và tự đặt mình vào giai cấp “công nhân,” tiên tiến hơn là làm cai phu. Ngoài ra, Lê Ðức Anh cũng bị tố là lấy cớ vợ của mình là con địa chủ nên bỏ đi lấy con gái của chính ủy quân khu V để tiến thân.

5. Trong một bài “Những việc cần làm ngay,” Nguyễn Văn Linh có lần công kích những tòa đại sứ Việt Nam đã không chịu mua xe Liên Xô mà lại mua nhiều xe Toyota, Honda của Nhật khiến Nguyễn Cơ Thạch phải giải thích là ở các nước khác, việc bảo trì xe Liên Xô rất tốn kém và nhiều khi, không có cơ phận thay thế. Nguyễn Văn Linh ký tắt là NVL, (Nói và Làm) bắt chước Hồ Chí Minh ngày xưa ký XYZ.

6. Ông Nguyễn Minh Cần, cựu phó chủ tịch Ủy Ban Nhân Dân Hà Nội có kể lại là trong đợt Cải Cách Ruộng Ðất sau 1954, Ðặng Thí là phó bí thư khu ủy khu IV. Khu IV quá nghèo nên không đạt chỉ tiêu số địa chủ để đấu tố của các cố vấn Trung Hoa nên cán bộ tìm mãi mới đôn lên 2 người trong đám trung nông lên đưa cho Ðặng Thí. Ðặng Thí đang đi xe đạp ngoài đường không cần hỏi han ký ngay giấy kết tội chết cho cả hai người trên ghi đông xe đạp.

7. Ngoài việc viết khảo luận chính trị, Hà Sĩ Phu cũng làm thơ:

Nhân danh
An ninh khu vực
Yêu cầu các tâm hồn
Hãy mở cửa ra
Cho kiểm tra
Hành chính
Còn tim đen người kiểm tra thì được quyền đóng kín
Tối như bưng chẳng khai báo bao giờ

8. Bùi Minh Quốc là một thi sĩ, từng là tổng biên tập tạp chí Lang Biang, sau đó bị khai trừ ra khỏi Ðảng và mất chức tổng biên tập. Sau khi mất chức, ông đã đi xe gắn máy khắp nước Việt Nam, nhất là đi kiểm tra việc Việt Nam nhường đất vùng biên giới. Trên đường đi, ông làm những câu thơ:

Một xe “81” với yên cương
Một áo blouson đẫm bụi đường
Rong ruổi với trời thu Việt Bắc
Bồi hồi mỗi dặm mỗi yêu thương

9. Nhà văn Vũ Huy Cương, bạn của Vũ Thư Hiên, đã bị tù vì án “xét lại.”  Xem Ðêm Giữa Ban Ngày. Năm 1996, bị bắt lại vì tội “photocopy” bức thư của Võ Văn Kiệt.

10. Ngay cả hai mươi năm sau, năm 2004, trước khi Diễn Ðàn Nhân Dân Á Âu (Asia Europe People’s Forum) họp tại Hà Nội, theo thông lệ, các phái đoàn của các đoàn thể phi chính quyền (NGO) đến họp trước. Họ ngạc nhiên không thấy có một đoàn thể phi chính quyền nào ở Việt Nam. Những hội đoàn vô tội như hội Hướng Ðạo (mà các cựu đoàn viên đều là đảng viên cao cấp như Hoàng Ðạo Thúy, Tạ Quang Bửu), không được tái thành lập. Do tình trạng giáo dục tồi tệ ở Việt Nam, hội khuyến học được dự định thành lập nhưng chi nhánh ở thành phố HCM do ngay cả cựu Ðại Tướng Công An Mai Chí Thọ đứng đầu xin phép mấy năm nay vẫn chưa được cấp giấy phép.

11. Nguyễn Ðan Quế: là một bác sĩ từng du học ở Bỉ về những bệnh nội tiết rồi về làm việc ở bệnh viện Chợ Rẫy. Sau 1975, ông thành lập Cao Trào Nhân Bản, bị ở tù nhiều năm và khi được thả, luôn luôn bị làm khó dễ đủ chuyện nhưng ông vẫn bền gan tranh đấu. Nhà cầm quyền khuyến khích ông lưu vong ra nước ngoài nhưng ông từ chối.

12. Dương Thông, trung tướng công an, là em của người vợ thứ nhất của Lê Duẩn.

13. Dương Thu Hương, tác giả những cuốn như Bên Kia Bờ Ảo Vọng, Những Thiên Ðường Mù…, đã từng theo bộ đội vào Nam chiến đấu trước năm 1975. Bà là người bị cả một hệ thống Thông Tin Văn Hóa kết hợp với công an bỏ tù, làm khó dễ, bôi đen, lăng mạ, kể cả người phê bình văn học của nhà nước là Phan Cự Ðệ. Tuy nhiên, bà vẫn có thái độ kiên cường, bất khuất. Sau này, bà sang định cư ở Pháp

14. Trích “Vietnam after 7th Party Congress” của Tadashi Mio, thuộc phân khoa Quan Hệ Quốc Tế Ðại Học Daito Bumka, Nhật Bản.

15. Ðể giúp đỡ và giám sát Việt Nam trong công cuộc đổi mới, Gorbachev cử một đại sứ mới là Kachin sang Việt Nam ngày 10-9-86 (Chính Ðạo, Việt Nam năm thứ 12)

16. Nhà thơ Vương Ðức Lệ, kể lại chuyện đi tù lần thứ hai của ông với người viết: “Thì ông Hoạt đưa cho mấy tài liệu thì tôi đọc chứ tôi có biết viết gì về chính trị đâu, chắc vì vậy mà chúng nó xưng xưng nói là tôi không phải tù chính trị. Thế thì tội của tôi là tội gì?.” Ông cũng nói nhà thơ Mai Trung Tĩnh, hoàn toàn không biết gì về việc của ông Ðoàn Viết Hoạt hay tài liệu mà ông Vương Ðức Lệ đọc, bị bắt ở tù thêm mấy năm vì một tội khác, đó là tội “là bạn thân của ông.”

17. Hầu hết tài liệu về việc tái lập bang giao Việt Hoa đều từ cựu Thứ Trưởng Ngoại Giao Trần Quang Cơ

18. Thái độ coi thường Việt Nam của Trung Hoa không phải ít xảy ra. Trong Ðêm Giữa Ban Ngày, nhà văn Vũ Thư Hiên kể lại là khi Trần Huy Liệu sang thăm Trung Hoa và được gặp Mao Trạch Ðông, báo Trung Hoa đã đăng hình Trần Huy Liệu lên với ghi chú “Chủ Tịch Mao Trạch Ðông cho Trần Huy Liệu được bắt tay.” Ngoài ra trong thời kỳ tranh chấp Nga Hoa, khi Hồ Chí Minh trên đường đi Liên Xô ghé qua Bắc Kinh, Mao Trạch Ðông cũng để Hồ Chí Minh chờ vài tiếng đồng hồ rồi mới tiếp.

19. Nhà thơ Việt Phương (Việt Thường?) từng là vụ trưởng vụ tổng hợp phủ thủ tướng, rất thân cận với Phạm Văn Ðồng. Khoảng đầu thập niên 1970, ông được theo Lê Thanh Nghị sang Âu Châu, về nhà làm tập thơ Mở Cửa, trong đó có những câu:

Ta nhất quyết đồng hồ Liên Xô tốt hơn đồng hồ của Mỹ
Hình như đây là ý chí, niềm tin và tự hào
Mường tượng rằng trăng Trung Quốc đẹp hơn trăng nước Mỹ
Sự ngây thơ đẹp tuyệt vời nhưng ngờ nghệch làm sao

Năm xưa ta vô tình tô thắm cuộc đời để mà tin
Nay đã tin mà không cần tô thắm gì nữa cả
Quen thuộc rồi mối bất ngờ kỳ lạ
Ta đã trả giá rất đau và đã học nhìn

Thật ra không phải chỉ riêng Phạm Văn Ðồng mới ngậm miệng thủ thân, Võ Nguyên Giáp cũng ngậm miệng khi đang làm Bộ Trưởng Quốc Phòng, những thuộc cấp (như các cục trưởng tác chiến, quân báo…) bị bắt oan. Ngay cả Hồ Chí Minh, khi bí thư cũ của ông là Vũ Ðình Huỳnh bị bắt bỏ tù oan ức trong vụ án xét lại, Hồ Chí Minh vẫn làm lơ, không dám can thiệp.

.

Chính quyền Cộng Sản Việt Nam sau đại hội VII (1991-1996)

Giữa năm 1991, 1176 đại biểu của đảng Cộng Sản Việt Nam họp đại hội lần thứ VII để tìm biện pháp đối phó với sự thay đổi nhanh chóng của tình hình thế giới và trong nước. Do sự sụp đổ của chính phủ Liên Xô và của khối Ðông Âu, đảng Cộng Sản Việt Nam bị đặt trước một tình trạng khó xử. Họ nhận thấy những biện pháp kinh tế cởi mở thi hành từ 1986 đã phần nào giúp phục hồi lại nền kinh tế lạc hậu gây ra do cái hệ thống kinh tế tập thể hóa áp dụng trong mấy chục năm qua, nhưng nếu cứ tiếp tục chính sách đổi mới theo Liên Xô sẽ có nguy cơ bị tan rã. Vì thế, những lãnh tụ Cộng Sản Việt Nam thấy cần phải cầu hòa và dựa dẫm vào Trung Hoa. Trước hết, vì Trung Hoa là một trong vài quốc gia Cộng Sản hiếm hoi còn sót lại. Thứ hai, đó là một nước đã mạnh mẽ đàn áp tự do dân chủ nhưng vẫn đạt được những thành quả kinh tế. Thứ ba, trong một hoàn cảnh bị cô lập, sẽ không có ai giúp đỡ Việt Nam một khi có xảy ra tranh chấp với Trung Hoa.

Bộ Chính Trị mới được bầu trong đại hội Ðảng khóa VII năm 1991 gồm có:

1. Ðỗ Mười: Tổng bí thư. Tên thật là Nguyễn Cống, trong chiến tranh Ðông Dương I hoạt động trong vùng Hải Phòng, sau đó lần lượt là chính ủy quân khu tả ngạn sông Hồng, trưởng ban cải tạo công thương nghiệp miền Bắc, bộ trưởng Bộ Xây Dựng rồi trưởng ban cải tạo công thương nghiệp miền Nam.

2. Lê Ðức Anh: kiêm nhiệm chủ tịch hội đồng nhà nước.

3. Võ Văn Kiệt: kiêm nhiệm chủ tịch hội đồng bộ trưởng.

4. Ðoàn Khuê: kiêm nhiệm bộ trưởng quốc phòng.

5. Ðào duy Tùng: trưởng ban Tư tưởng Văn hóa đảng, thường trực ban bí thư.

6. Vũ Oanh: từng phụ trách địch vận trong chiến tranh Ðông Dương II. Sau 1979, qua Căm Pu Chia phụ tá cho Lê Ðức Thọ và Trần Xuân Bách trong đoàn B68. Khi ở trong Bộ Chính Trị, có lẽ đã được giao trách nhiệm về tôn giáo nên đã có nói chuyện và viết nhiều bài về chính sách đối với Phật Giáo và Thiên Chúa Giáo.

7. Lê Phước Thọ: được bầu vào ban bí thư năm 1986, sau này thay Nguyễn Ðức Tâm làm trưởng ban tổ chức đảng.

8. Phan Văn Khải: sinh tại Củ Chi năm 1923, sau năm 1954 tập kết ra Bắc rồi sang Liên Xô du học. Trở về phục vụ tại Ủy ban Kế hoạch Nhà nước. Năm 1972 vào Nam tham dự chiến tranh Ðông Dương II. Sau 1975, phục vụ tại thành phố Hồ chí Minh. Năm 1985 là phó bí thư thành ủy và được vào trung ương đảng. Năm 1989 bắt đầu làm Chủ tịch Ủy ban Kế hoạch Nhà nước trước khi được vào Bộ Chính Trị.

9. Bùi Thiện Ngộ: Bộ trưởng công an, từng là trưởng ty công an Vũng Tàu rồi trưởng ty công an thành phố HCM.

10. Nông Ðức Mạnh: từng là bí thư tỉnh ủy Bắc Thái.

11. Phạm Thế Duyệt: cùng Vũ Oanh, Lê Phước Thọ được đề cử vào ban bí thư năm 1986. Phạm Thế Duyệt trước kia là giám đốc mỏ than Quảng Ninh, chủ tịch công đoàn, sau thăng làm bí thư thành ủy Hà Nội rồi ủy viên Bộ Chính Trị, cuối cùng là chủ tịch mặt trận tổ quốc.

12. Nguyễn Ðức Bình: từng là giám đốc trường đảng từ năm 1985, là một người rất giáo điều. Về sau, sau khi Việt Nam có liên lạc ngoại giao với Trung Hoa, được Lê Khả Phiêu cử sang Trung Hoa để cùng các lý thuyết gia Trung Hoa nghiên cứu cách diễn dịch chủ nghĩa Mác theo khía cạnh “kinh tế thị trường.”

13. Võ Trần Chí: từng là bí thư thành ủy thành phố HCM thay Mai Chí Thọ.

Xét thành phần Bộ Chính Trị kể trên, đa số đều có khuynh hướng bảo thủ, trong đó có hai khối bảo thủ nhất là quân đội và công an. Sau khi Liên Xô và Ðông Âu sụp đổ, không còn viện trợ, Việt Nam phải rút quân từ Căm Pu Chia về và nửa triệu quân nhân đã bị phục viên. Ða số những người này phải sa vào cảnh thất nghiệp, đói kém. Vì những biến động chính trị ở Ðông Âu và chiến tranh vùng Vịnh năm 1990, họ không còn được “xuất khẩu lao động” đi ra nước ngoài để làm việc kiếm tiền nữa. Ðời sống của những quân nhân tại ngũ cũng không khá hơn. Khẩu phần ăn hàng ngày bị giảm bớt, ngân sách trang bị và huấn luyện cũng bị giảm thiểu. Tướng Ðàm Văn Ngụy, tư lệnh quân khu I có viết lại là có những tháng, tổng cục hậu cần của quân đội đã không phân phối được lương thực cho binh sĩ. Hơn nữa, trong bước đầu của đổi mới kinh tế, khi các đơn vị mua lương thực, họ đã phải trả theo giá thị trường nên phần ăn càng ít đi, gây nên sự bất mãn của quân đội với đổi mới. Vì thế, khi vai trò của quân đội được tăng cường trong trung ương đảng và Bộ Chính Trị, những phần tử này cùng những đại diện của công an đã trở nên một khối bảo thủ vững chắc, chống lại những biện pháp cởi mở.

Tuy nhiên, nhờ có những biện pháp cải cách kinh tế, đời sống người dân tương đối khá hơn trước nên tất cả những ủy viên, ngay cả những người bảo thủ giáo điều nhất như Ðào Duy Tùng, Ðoàn Khuê, Phạm Thế Duyệt… người nào cũng tuyên bố là họ ủng hộ “đổi mới.” Trong diễn văn tại đại hội đảng, Ðỗ Mười cũng phải gián tiếp công nhận sự thất bại của chính sách kinh tế chỉ huy trước đó khi ông kêu gọi sự giúp đỡ của thế giới để giúp Việt Nam ra khỏi tình trạng “nghèo đói và lạc hậu.” Nguyễn Văn Linh tuy đã ngả về phe bảo thủ nhưng bị loại vì bị coi như đã phạm lỗi lầm khi đưa ra vài biện pháp chính trị cởi mở lúc ban đầu.

Trong dịp đại hội lần thứ VII này đã xảy ra tranh chấp giữa Lê Ðức Anh và Võ Nguyên Giáp. Vì uy tín của Võ Nguyên Giáp vẫn còn quá lớn trong quân đội, trong hoàn cảnh khủng hoảng ý thức hệ, Võ Nguyên Giáp được một số đại biểu quân đội dự định đưa ra để cứu vãn uy tín của đảng Cộng sản. Trong thời gian này, Lê Duẩn đã chết, Lê Ðức Thọ đã hết thực quyền nên Võ Nguyên Giáp có rất nhiều hy vọng được quân đội ủng hộ. Lê Ðức Anh sợ mất địa vị nên đã sử dụng cục Quân báo (cục 2) của Bộ Quốc Phòng để tạo ra một bản báo cáo nhan đề “Tình Hình Hoạt Ðộng Bè Phái Trong Ðảng,” sau đó dùng uy thế của mình cùng Nguyễn Ðức Tâm để lấy danh nghĩa Bộ Chính Trị phổ biến cho các đại biểu quân đội nhằm triệt hạ uy tín Võ Nguyên Giáp. Bản báo cáo kể lại có hai đảng viên Cộng sản miền Nam (Hồ Văn Châu hay Năm Châu, một sĩ quan về hưu trong hội Cựu chiến sĩ, và Nguyễn Thị Sứ, hay Sáu Sứ, trong Hội Phụ Nữ Cứu Quốc) cùng một số đảng viên khác ra Hà Nội để vận động cho Võ Nguyên Giáp làm Tổng bí thư, từ đó Trần Văn Trà sẽ làm bộ trưởng Quốc phòng, Trần Văn Danh (từng làm tư lệnh phó quân khu VII cho Trần Văn Trà) sẽ làm bộ trưởng Công an. Những ủy viên trung ương đảng được nghe chứng cớ là những băng ghi âm ngụy tạo.

Vì Võ Nguyên Giáp tuy mất chân trong Bộ Chính Trị nhưng vẫn được tham dự đại hội, nên khi được lên tiếng, ông phủ nhận mọi lời tố cáo. Ông còn cho biết đã bị Lê Ðức Thọ chèn ép trong đại hội VI năm 1986. Trong bức thư gửi trung ương đảng để phân trần, Võ Nguyên Giáp vẫn nuôi tham vọng trở lại chính trường nên ngoài việc phủ nhận vụ Sáu Sứ, ông tự thấy mình “còn khả năng, nhất là về lý luận và chiến lược” và “tự xác định là không nên tự mình xin rút” (về hưu). Ðể lấy lòng phe bảo thủ, Võ Nguyên Giáp còn khoe là mình đã nhiều lần “nghiên cứu với Ðỗ Mười,” “trao đổi với Ðào Duy Tùng,” “khuyên Trần Văn Trà nên hòa thuận với Lê Ðức Anh,” cũng như “không tiết lộ những bất hòa giữa Hồ chí Minh và Trần Phú” vì có thể làm xấu mặt đảng.

Tuy nhiên, lúc đó Lê Ðức Anh đã củng cố được địa vị, cho nên trong đại hội đảng lần thứ VII, Võ Nguyên Giáp đã không được cử cho làm một chức vụ gì mà sau đó còn bị Lê Ðức Anh cùng phe cánh loại trừ luôn ra khỏi trung ương đảng. Ngoài vụ Sáu Sứ, lý lịch cũ của Võ Nguyên Giáp là con nuôi của chánh sở mật thám Marty, và đơn xin du học với những lời lẽ khẩn khoản trong hình thức cũng bị lôi ra kết tội, dù cho điểm đen của lý lịch này đã được Hồ chí Minh dùng uy tín của mình để giúp cho Võ Nguyên Giáp minh oan từ năm chục năm trước. Vì bị chèn ép như thế, kể từ lần đại hội VII cho đến hơn mười năm sau, hầu như lần đại hội đảng nào Võ nguyên Giáp cũng gửi thư cho trung ương đảng khiếu nại. Một phần vì uy thế của Lê Ðức Anh vẫn còn, phần khác vì các đầu não của đảng không muốn phanh phui những xấu xa nội bộ nên đại hội nào cũng tìm cách trì hoãn, nói là đại hội sau sẽ giải quyết, và cuối cùng đến đại hội X thì bị cho đó là “những vấn đề lịch sử, quá cũ.” Ðể thẳng tay triệt hạ uy tín Võ Nguyên Giáp, mấy năm sau, Lê Ðức Anh còn cho một thân tín của mình là Ðặng Ðình Loan viết cuốn sách “Ðường Thời Ðại,” trong đó mục tiêu chính là kể xấu Võ Nguyên Giáp và đề cao Lê Ðức Anh. Cuốn sách được vây cánh của Lê Ðức Anh là Trần Hoàn, bộ trưởng Thông tin cùng Lê Khả Phiêu, chủ nhiệm tổng cục Chính trị tài trợ và Tướng Ðoàn Chương, em ruột Ðoàn Khuê, đang là giám đốc nhà xuất bản Quân Ðội Nhân Dân in, phát hành, quảng cáo và phổ biến rộng rãi trong quân đội (2). Sau đó, Lê Ðức Anh còn cho thực hiện một cuốn phim tài liệu về đời của mình để chiếu trên truyền hình, trong đó đưa ra một nhân chứng xác nhận Lê Ðức Anh đã đỗ tú tài và vào đảng năm 1938. Nhân chứng này là anh ruột ông ta. Ðồng thời, cuốn “Những Kỷ Niệm Về Lê Duẩn” của Trần Quỳnh cũng được tung ra, Trần Quỳnh là cựu trợ lý của Lê Duẩn và từng được Lê Duẩn cất nhắc làm phó thủ tướng, Trần Quỳnh kể lại trong buổi họp của Bộ Chính Trị về vụ án xét lại, Võ Nguyên Giáp đúng ra đã bị loại nhưng được Lê Duẩn can thiệp và giữ lại vì thời gian đó Việt Nam đang cần viện trợ của Liên Xô. Vì thế mà Võ Nguyên Giáp rất sợ Lê Duẩn. Trong cuốn sách, Trần Quỳnh đã ca ngợi “Bộ Chính Trị là những người con ưu tú nhất và đáng kính nhất của dân tộc,” nhưng nội dung cuốn sách lại chê bai hầu hết những “người con ưu tú nhất” này, chẳng hạn Võ Nguyên Giáp hèn, Lê Ðức Thọ nham hiểm, Phạm Văn Ðồng và Trường Chinh đón gió, Hoàng Văn Hoan bội phản… Ngoài ra, một lá thư nặc danh khác, nhan đề “Ðại Tướng Võ Nguyên Giáp, Anh Văn Của Chúng Ta,” gán cho Võ Nguyên Giáp 7 tội, trong đó có tội quan hệ tình ái lăng nhăng với vợ của nhà văn Ðào Vũ khi bà này đến dạy nhạc tại nhà cho con của Võ Nguyên Giáp cũng được gửi đi khắp nơi.

Phe ủng hộ Võ Nguyên Giáp cũng phản công, tung ra một lá thư khác, tố cáo Lê Duẩn hai ba vợ và lạm dụng quyền thế, Lê Ðức Thọ hiểm độc, Lê Ðức Anh ngoài việc khai man lý lịch còn hành hạ công nhân khi làm cai phu, Phạm Hùng là tình nhân của Nguyễn Thị Trung Chiến, Võ Chí Công là bố vợ của Thân Trọng Hiếu, người đã biển thủ hơn 40 triệu.

Do sự cởi mở phần nào tự do báo chí mấy năm trước, những bất mãn của nhân dân bắt đầu được phơi bày, một số những lạm dụng của đảng viên cao cấp bị công khai tố cáo, ưu quyền của giai cấp cầm quyền mới bị đe dọa, đồng thời cuộc sống kinh tế của quân đội cũng như bộ đội phục viên bị khó khăn, khối đảng viên bảo thủ này đã qui trách nhiệm cho Nguyễn Văn Linh và loại ông này ra khỏi chức tổng bí thư, dù cho Nguyễn Văn Linh trong hai năm cuối của nhiệm kỳ đã cố gắng xoa dịu họ bằng cách đưa ra những biện pháp kiểm soát cứng rắn, chẳng hạn như loại bỏ Tướng Trần Ðộ, bắt giữ những người đòi hỏi tự do dân chủ như Nguyễn Hộ, Tạ Tá Tòng, Bác Sĩ Nguyễn Ðan Quế… Do áp lực của Trung Hoa, Nguyễn Cơ Thạch bị loại ra ngoài Bộ Chính Trị cũng như trong chính phủ. Vì ảnh hưởng của Lê Ðức Thọ suy yếu dần, Nguyễn Ðức Tâm cũng mất chức. Cũng do áp lực Trung Hoa, Mai Chí Thọ không được đề cử làm ủy viên trung ương đảng vì Mai Chí Thọ khi phụ trách công an thành phố HCM đã có dính dáng đến vụ đàn áp, tịch thu tài sản và trục xuất người Hoa trong những năm của phong trào thuyền nhân vượt biên. Võ Chí Công từ chức vì lý do tuổi tác. Trong đại hội đảng lần thứ VII, người bị chỉ trích nhiều nhất là Trần Xuân Bách. Ông ta không những mất chức ở Bộ Chính Trị mà còn mất luôn địa vị ủy viên trung ương đảng. Trong Bộ Chính Trị mới được bầu ra, ngoài Tổng Bí Thư Ðỗ Mười, người có nhiều quyền lực nhất là Lê Ðức Anh. Tuy nắm giữ chức Chủ tịch Nhà nước, một chức vụ trước kia chỉ là hư vị, nhưng trong thời gian của Lê Ðức Anh, Lê Ðức Anh được giao nhiệm vụ giám sát cả ba ngành quốc phòng, ngoại giao và an ninh. Ðảng Cộng sản lúc đó vì sợ quyền hành tập trung vào một người sẽ xảy ra trường hợp Gorbachev bên Liên Xô nên đã tăng cường quyền lực cho Lê Ðức Anh. Do sự cần thiết của đổi mới kinh tế, Võ Văn Kiệt được đứng hàng thứ ba trong Bộ Chính trị. Ðồng thời, vì ông là người miền Nam (Ðỗ Mười người miền Bắc, Lê Ðức Anh miền Trung) cho nên dù nhiều khi phải đối chọi với khuynh hướng bảo thủ của Ðỗ Mười và Lê Ðức Anh, địa vị của Võ Văn Kiệt vẫn vững vàng trong nhiều năm. Khi còn làm bí thư thành ủy thành phố HCM, trước thất bại của chính sách kinh tế nhà nước, Võ Văn Kiệt đã lập ra một ban cố vấn kinh tế, đứng đầu là cựu phó thủ tướng VNCH Nguyễn Xuân Oánh và nhờ đó, đã sớm thi hành những đường lối kinh tế cởi mở. Trong Bộ Chính Trị, Võ Văn Kiệt cùng với Phan Văn Khải, cũng là người miền Nam, là hai người cởi mở nhất trong một Bộ Chính Trị bảo thủ. Nhờ đó mà nông nghiệp của vùng Ðồng Bằng Sông Cửu Long và những xí nghiệp tư nhân của thành phố Hồ Chí Minh trở nên nguồn phát triển tài lực chính của kinh tế Việt Nam (3). Cũng nhờ Võ Văn Kiệt, Nguyễn Xuân Oánh năm 1987 được bầu làm đại biểu Quốc Hội cùng với bà Ngô Bá Thành. Ðến kỳ bầu cử này, đà đổi mới bị ngưng trệ, Nguyễn Xuân Oánh không được Mặt trận Tổ quốc đưa ra ứng cử, bà Ngô Bá Thành được đưa ra, nhưng dù được đảng cho ứng cừ 10 người thì trúng cử hết 9, bà Thành lọt vào trong số người thất cử hiếm hoi đó. Trả lời câu hỏi của đài BBC, bà nói là vì có “gian lận” (4).

Do sự ưu thắng của phe bảo thủ trong Bộ Chính Trị, chiều hướng ngoại giao nghiêng về ý thức hệ và nhượng bộ Trung Hoa đã lấn áp chiều hướng “đa phương hóa một cách quân bình.” Sự coi trọng đặc tính “xã hội chủ nghĩa” và bỏ qua đặc tính “bành trướng” của Trung Hoa của phe bảo thủ xuất phát từ sự sống còn của đảng Cộng sản và sự bất an của nhóm lãnh đạo. Ngoài ra, khối quân đội, từng được ưu đãi trong thời chiến, bị quên lãng trong mấy năm đổi mới, bị mất uy tín khi phải rút quân khỏi Căm Pu Chia, bị quân Trung Hoa lấn áp cả trên bộ lẫn trên biển và nhất là những cấp chỉ huy đều là những đảng viên trung kiên nên đã cùng với khối công an hợp thành một khối bảo thủ vững chắc. Do sự suy sụp của Liên Xô và khối Ðông Âu, sợ rằng những “thế lực thù nghịch” sẽ lật đổ chế độ, vai trò của quân đội được coi trọng hơn, do đó mà Lê Ðức Anh dù là chủ tịch Nhà nước, đã có rất nhiều quyền hành để thao túng chính phủ, và hơn một năm sau, phe quân đội lại càng được tăng cường khi Lê Khả Phiêu được đề cử thêm vào Bộ Chính Trị. Dù lúc nào cũng cảnh giác với tham vọng của Trung Hoa, nhưng trước nguy cơ tan rã, quân đội luôn luôn nghiêng về ý thức hệ và càng chủ trương thân thiện với Trung Hoa. Kẻ địch phải cảnh giác của báo Quân Ðội Nhân Dân kể từ lúc đó không phải là những lực lượng quân sự nào mà luôn luôn là những “diễn biến hòa bình,”(5). Sau chuyến đi của Lê Ðức Anh sang Trung Hoa năm 1991, lần lượt nhiều tướng lãnh Việt Nam cũng sang kết thân như Vũ Xuân Vinh (cục đối ngoại quân đội), Ðoàn Khuê, Lê Khả Phiêu (khi còn là chủ nhiệm Tổng cục Chính trị), Ðào Ðình Luyện…

.

Bắc Kinh khinh thường Hà Nội như thế nào?

Nhờ những kết quả có được nhờ đã từ bỏ đường lối kinh tế chỉ huy, nhiều đạo luật cởi mở hơn được đưa ra như luật về quyền tư hữu, luật lao động phân định quyền lợi giữa chủ và thợ, luật cho phép sang nhượng ruộng đất, luật nới rộng đầu tư… được ban hành. Sau đó, năm 1992, Việt Nam bắt đầu vận động để gia nhập khối ASEAN và thiết lập quan hệ ngoại giao với Ðại Hàn. Nhật Bản cũng bỏ cấm vận và cho Việt Nam vay 370 triệu Mỹ kim. Năm 1993, Việt Nam ký thỏa hiệp thương mại với khối kinh tế Tây Âu. Năm 1994, do việc Việt Nam sốt sắng cộng tác trong việc tìm kiếm người mất tích (MIA), Tổng Thống Clinton chấm dứt cấm vận vào tháng 7 năm 1995 và thiết lập quan hệ ngoại giao chính thức với Việt Nam. Cựu Dân Biểu Pete Peterson, một cựu tù nhân Mỹ từng bị giam ở Hỏa Lò sáu năm được cử làm đại sứ. Trong khi đó, đại sứ Việt Nam tại Hoa Kỳ là Lê Văn Bằng, từng làm đại sứ ở Liên Hiệp Quốc. Cũng trong tháng đó, Việt Nam trở nên nước hội viên thứ bảy của tổ chức ASEAN.

Việc gia nhập vào ASEAN không những đã giúp cho Việt Nam được hội nhập và học hỏi những kinh nghiệm phát triển kinh tế của các nước trong vùng mà còn giúp cho Việt Nam nhiều thuận lợi về chính trị và ngoại giao. Dưới danh nghĩa hội viên của một tổ chức quan trọng gồm những nước có kinh tế năng động như Tân Gia Ba, Thái Lan, Mã Lai…, uy tín Việt Nam được nâng cao. Trong khi chưa thể cầu thân với Hoa Kỳ để thăng bằng áp lực của Trung Hoa, ít ra Việt Nam cũng có thể cùng những nước trong tổ chức trên dàn xếp những xích mích với Trung Hoa. Ngoài ra, việc gia nhập ASEAN cũng là cơ hội tiến thêm một bước để thiết lập bang giao với Hoa Kỳ.

Nhờ trình độ dân trí cao và nhân công tương đối còn rẻ so với các nước ASEAN láng giềng, các công ty ngoại quốc bắt đầu bỏ tiền vào đầu tư, kinh tế Việt Nam bắt đầu phát triển, nhất là về nông nghiệp và kỹ nghệ nhẹ chế tạo hàng tiêu dùng. Tuy nhiên, để giữ vững “định hướng xã hội chủ nghĩa,” chính quyền vẫn duy trì những công ty do nhà nước quản lý dù cho những công ty này bị lỗ lã và chính phủ phải tài trợ mới đứng vững. Khi Võ Văn Kiệt kêu gọi cần có sự đối xử đồng đều đối với cả công ty tư nhân lẫn quốc doanh, đề nghị này bị gán cho là “sai đường.” Trong những công ty hợp doanh lớn, Ðỗ Mười đã đòi hỏi phải có đại diện của Ðảng nằm trong công ty. Ngoài ra, do yếu tố chính trị nhằm nâng đỡ những tỉnh miền Trung, xưởng lọc dầu được chấp thuận xây dựng tại Dung Quất, Quảng Ngãi. Vì lý do địa điểm này không thuận lợi, không hợp lý về kinh tế, cách xa những giếng dầu ngoài biển hàng ngàn cây số, những công ty ngoại quốc rút ra khỏi công tác xây dựng, trung ương đảng nhất định không đổi ý, dùng những công ty xây cất quốc doanh. Do đó mà xưởng lọc dầu này đến nay vẫn chưa xong.

Ngoài việc tìm cách kiềm hãm sự đổi mới kinh tế, những thành phần bảo thủ trong Bộ Chính Trị đã kiểm soát chặt chẽ hơn trên lĩnh vực thông tin văn hóa. Ngay sau khi nhận chức Tổng Bí Thư, Ðỗ Mười đã cảnh cáo là “ngành thông tin cần được hướng dẫn” và “báo chí vẫn là mũi tấn công chính của mặt trận văn hóa tư tưởng.” Ðỗ Mười chê trách ngành truyền thông đã lợi dụng sự cởi trói báo chí để “có những bài báo, sách vở phủ nhận đảng, bóp méo lịch sử và sự thật.” Một ủy viên khác, Nguyễn Ðức Bình, cũng gọi truyền thông đại chúng là “vũ khí hữu hiệu trên mặt trận văn hóa tư tưởng,” và kêu gọi báo chí phải “vạch trần những âm mưu của những lực lượng chống chủ nghĩa xã hội muốn phủ nhận quyền lãnh đạo của đảng.” Tuy không trực tiếp kiểm duyệt, nhưng những giám đốc đài phát thanh, những tổng biên tập nguyệt san và báo chí đều là đảng viên nên đảng tạo áp lực bằng những cuộc họp mỗi tháng với Ban Tư Tưởng Văn Hóa Trung Ương Ðảng. Nhiều tổng biên tập không tuân hành đường lối của Ðảng đã bị mất chức. Thí dụ là Vũ Kim Hạnh, Tổng Biên Tập Báo Tuổi Trẻ, đã dám đăng bài phê bình chế độ cha truyền con nối của cha con Kim Nhật Thành ở Bắc Triều Tiên, rồi sau đó lại đăng bài nói về chuyện Hồ Chí Minh có vợ. Bài báo cũng đăng bài thơ Lý Thụy gửi bà vợ Tàu Tăng Tuyết Minh ngay trên trang nhất (Dữ muội tương biệt. Chuyển thuấn niên dư. Hoài niệm tình thâm. Bất ngôn tự hiểu. Từ nhân hồng tiện. Dao ký thốn tiên. Tỷ muội an tâm. Thị ngã da vọng. Tịnh thỉnh nhạc mẫu vạn phúc). Theo Hoàng Tranh (Huang Zheng), phó viện trưởng Viện Khoa Học Xã Hội Quảng Tây, đám cưới của hai người cử hành vào tháng 10 năm 1926. Bà Kim Hạnh vì việc này mà mất chức (12). Mấy năm sau, bà quay sang xin được làm tờ Sài Gòn Tiếp Thị, một tờ báo giúp ý kiến người đọc mua bán hàng hóa.

Tuy nhiên, dù cho những lãnh tụ Cộng Sản Việt Nam, nhất là phe quân đội, tỏ thái độ tùng phục và dù cho đã có quan hệ ngoại giao chính thức, Trung Hoa vẫn lợi dụng tình trạng cô thế của Việt Nam để mà lấn át. Ngày 15-2-1992, Trung Hoa công bố Luật Lãnh Hải của họ, bao gồm gần hết biển Ðông, và nói là sẽ dùng võ lực để ngăn ngừa những vi phạm chủ quyền của họ. Cùng với những lời công bố, Trung Hoa cho quân đến chiếm đảo Ba Ðầu trong quần đảo Trường Sa. Chiếm đảo này xong, Trung Hoa mạnh mẽ cảnh cáo Việt Nam là “không nên làm điều gì gây phương hại cho tình hữu nghị mới tái lập.” Một số đại biểu Quốc Hội phản kháng nhưng bị Ban Ðối Ngoại Trung Ương Ðảng dẹp bỏ. Ba tháng sau, ngày 8-5-1992, khi cố vấn của Bộ Chính Trị là Nguyễn Văn Linh sang gặp Giang Trạch Dân và Lý Bằng tại Bắc Kinh, có lẽ để dằn mặt Cộng Sản Việt Nam, cùng ngày hôm đó và ở cùng một phòng trong Nhân Dân Ðại Sảnh, Trung Hoa ký kết với hãng thầu Crestone của Hoa Kỳ để khai thác dầu hỏa trên vùng đảo Tu Chính, nơi mà Việt Nam và Trung Hoa đang tranh chấp. Tổng giám đốc công ty Crestone là Randall Thompson sau đó đã xác nhận là những giới chức Trung Hoa đã cam kết với ông là hải quân Trung Hoa sẽ dùng toàn lực bảo vệ nếu có chuyện gì xảy ra trong vùng biển mà công ty khai thác. Nguyễn Văn Linh không dám có một phản ứng nào về việc này, trái lại vẫn ngỏ lời cám ơn Trung Hoa về “những giúp đỡ quí báu” trước kia. Ngày 27-5-92, quân Trung Hoa cũng dời cột mốc biên giới ở Ải Nam Quan sâu vào lãnh thổ Việt Nam từ 400 đến 500 thước và đầu tháng 7, Trung Hoa cắm mốc nhận chủ quyền trên đảo Ða Lạc thuộc Trường Sa.

Hành động lấn át của Trung Hoa đã gây tranh luận gắt gao tại Hội Nghị Trung Ương Ðảng từ ngày 18 đến 29-6-1992.  Phe bảo thủ cho là “vì Trung Hoa vẫn là một nước xã hội chủ nghĩa, chúng ta cần phải liên kết với Trung Hoa và bỏ qua những xích mích nhỏ nhặt,” trong khi đó, phe thực dụng tố cáo Trung Hoa hai mặt và “lợi dụng chủ nghĩa xã hội để trói tay Việt Nam.” Ðỗ Mười tuy rất bảo thủ nhưng lúc nào cũng hô hào đổi mới, ngoài mặt nói Trung Hoa là “bành trướng” nhưng lại không có một phản ứng nào ngoài việc mời Lý Bằng sang thăm Việt Nam. Trước khi Lý Bằng sang thăm Việt Nam, trong tháng 8, Trung Hoa dựng một dàn khoan trên vùng biển mà hai bên trước kia đã thỏa thuận là để trống chờ sau này sẽ thương thuyết giải quyết, đồng thời cũng tịch thu hai tàu buôn của Việt Nam tại Hồng Kông, tố cáo là họ buôn lậu.

Sự quá đáng của Trung Hoa gây bất an không những cho Việt Nam mà còn cho những nước ASEAN trong vùng. Vào tháng 11 năm 1992, Ðô Ðốc Larson, tư lệnh các lực lượng Hoa Kỳ trên vùng biển Thái Bình Dương mạnh mẽ tuyên bố là Hoa Kỳ không muốn thấy một quốc gia nào thống trị vùng Ðông Nam Á mà chỉ muốn có một sự thăng bằng lực lượng. Có lẽ nhờ vậy mà trước khi Lý Bằng sang Việt Nam, Trung Hoa rút bỏ dàn khoan dầu và trả lại hai tàu buôn.

Tháng 12 năm 1992, Thủ Tướng Trung Hoa Lý Bằng sang thăm Việt Nam. Chuyến viếng thăm chỉ chú trọng nhiều đến những hợp tác kinh tế nhưng vấn đề biên giới và lãnh hải vẫn có nhiều rắc rối. Trong cuộc họp báo, Lý Bằng tuyên bố một cách lạc quan rằng “dù hai bên còn có những bất đồng, nhưng chúng tôi đã thu hẹp những bất đồng lại chứ không làm lớn ra” nhưng Ngoại Trưởng Nguyễn mạnh Cầm đã không chắc chắn lắm “Thủ Tướng Lý Bằng đã cho biết nhận xét của ông về kết qủa những cuộc thảo luận. Chúng tôi ghi nhận nhận xét của ông và hy vọng chúng sẽ được thực hiện trên thực tế” (13).

Dù Bộ Ngoại Giao không được hài lòng, nhưng phe quân đội lại càng muốn liên kết chặt chẽ với Trung Hoa, nhất là sau khi thấy khả năng tấn công của Hoa Kỳ trong chiến tranh vùng Vịnh và trong cuộc chiến Bosnia. Ngay sau khi Lý Bằng về nước, đến lượt Bộ Trưởng Quốc Phòng Ðoàn Khuê sang Trung Hoa gặp Bộ Trưởng Quốc Phòng Trì Hạo Ðiền và sau đó được gặp Giang Trạch Dân. Trong cuộc tiếp xúc, Ðoàn Khuê đã cẩn thận không nhắc nhở gì đến những vấn đề biên giới. Ba tháng sau, đến lượt Trì Hạo Ðiền sang thăm Việt Nam đáp lễ. Do sự khác biệt về quan niệm ngoại giao giữa hai Bộ Quốc Phòng và Ngoại Giao, những viên chức Bộ Ngoại Giao đã không được thông báo gì về những cuộc tiếp xúc kể trên của hai quân đội Việt Hoa.

Quan hệ giữa Việt Nam và Trung Hoa được mô tả trong báo cáo mật của Bộ Trưởng Ngoại Giao Nguyễn Mạnh Cầm tại Quốc Hội vào tháng 9 năm 1992 như sau: “Chúng ta phải nỗ lực duy trì quan hệ của chúng ta với Trung Hoa nhưng đồng thời cũng phải bảo vệ chủ quyền và sự toàn vẹn lãnh thổ. Tuy nhiên, đây là một tiến trình lâu dài và rắc rối.” Sau những cuộc họp ở cấp thứ trưởng, một bản thỏa ước về những nguyên tắc căn bản để giải quyết vấn đề biên giới được hai bên ký kết ngày 19-10-93. Tuy nhiên, ở thế mạnh và kinh tế phát triển nhanh chóng, nhu cầu cần dầu hỏa của Trung Hoa ngày càng cao, vùng biển Ðông ngày càng trở nên một vùng biển quan trọng không những vì tài nguyên dầu hỏa ở đó mà còn là một thủy lộ chiến lược quan trọng để các tàu dầu ngoại quốc chở dầu đến bán cho Trung Hoa cho nên hải quân Trung Hoa luôn luôn tạo ra một áp lực trên vùng biển này.

Từ 1992, nhờ kinh tế khá hơn và có tiếng nói mạnh mẽ trong chính phủ, ngân sách quân đội Việt Nam sau một thời gian bị cắt giảm bắt đầu được gia tăng, khoảng hơn 1 tỷ mỹ kim một năm. Ngân sách này dần dần được tăng lên gấp đôi trong năm 1997. Vì vùng biển Ðông là một vùng có triển vọng sẽ có tranh chấp, Việt Nam chú trọng nhiều hơn vào việc hiện đại hóa hải quân và không quân. Ðồng thời, năm 1994, Ðoàn Khuê kêu gọi chính phủ tăng thêm ngân sách cho Tổng Cục Kinh Tế Quốc Phòng nhằm mục tiêu quân đội có ngày có thể tự túc. Trong tiến trình thay thế và canh tân vũ khí, Việt Nam đã đi mua võ khí từ nhiều nước khác nhau (Algeria, Anh quốc, Úc, Bulgaria, Pháp, Ấn, Nam Dương, Do Thái, Ý, Nhật, Bắc Hàn, Ðại Hàn, Ukraine, Liên Xô, Ba Lan, Tiệp Khắc, Mã Lai…)

Lực lượng hải quân của Việt Nam ở miền Bắc mới đầu gồm có những tàu tuần của Liên Xô. Những tàu này cũng như những tàu của hải quân VNCH cũ đã trở nên lỗi thời và không có cơ phận thay thế. Dù được Liên Xô viện trợ, những nhà quan sát nhận định là vào năm 1992, hải quân của Việt Nam không thể ngang tay với đa số các nước trong vùng Ðông Nam Á và không cách nào so sánh được với Trung Hoa. Sau nhiều thăm dò tại Úc, Nam Dương, Mã Lai, cuối cùng, năm 1994, Việt Nam mua được của Liên Xô bốn tuần dương hạm Tarantus loại I và loại II trang bị hỏa tiễn Styx với tầm bắn xa 83 cây số. Sau đó Việt Nam hỏi mua 3 tàu tuần duyên của Ðại Hàn. Liên Xô cũng hợp tác với Việt Nam để chế tạo tàu phóng ngư lôi và hộ tống hạm nhỏ ở bến cảng Sài Gòn, sau đó, bán cho Việt Nam vài tàu ngầm Kilo. Việt Nam cũng mua được hai tàu ngầm cũ của Bắc Hàn và đã trả bằng gạo. Năm 1999, Việt Nam mua thêm của Bắc Hàn một số hỏa tiễn SS1 Scud B và hỏa tiễn phòng không Igla (SA-16 Gimlet) trị giá khoảng 100 triệu Mỹ kim. Năm 2000, hải quân của Việt Nam đã đạt được một bước dài sau khi ký một hiệp ước với Ukraine để Ukraine giúp đỡ canh tân và huấn luyện chuyên viên tại xưởng đóng tàu Ba Son.

Không quân của Việt Nam ngoài những máy bay chuyên chở và trực thăng mà tình trạng hoạt động không được biết rõ, lực lượng chiến đấu chính là những máy bay Mig 21 và Su 22. Số máy bay Mig 21 năm 1987 bị hư hỏng dần, đến năm 1999 chỉ còn có 124 chiếc. Do thói quen, Việt Nam lại dựa vào Liên Xô để mua vũ khí mới. Năm 1994, Việt Nam mua 6 máy bay chiến đấu và oanh tạc Sukhoi Su-27, hai năm sau lại mua thêm 6 chiếc nữa. Những máy bay này có tầm hoạt động là 4000 cây số và có thể bay trên trời 5 giờ liên tiếp. Tới năm 2005, Việt Nam có thêm được 5 chiếc Su30 và cũng mua thêm 40 chiếc Su 22 cũ của Ba Lan. Số máy bay Mig 21 còn lại cũng được Ấn Ðộ và Do Thái canh tân. Có lẽ Việt Nam sợ không dám mua Su-27 của Liên Xô, vì một chiếc bị rớt khi tham dự đại hội Air Show ở Tân gia Ba, một chiếc khác rớt gần Cam Ranh. Riêng Phần Lan, khi canh tân quân đội, những xe tăng T54 và T55 không dùng đến nữa đã bán tống bán tháo cho Việt Nam (14).

Do sự bất lực trước những hành động lấn áp của Trung Hoa, ngoài việc gia tăng ngân sách quốc phòng, Việt Nam vẫn tiếp tục đa phương hóa ngoại giao bằng cách cải thiện mối quan hệ với Hoa Kỳ và các nước ASEAN. Riêng đối với Hoa Kỳ, Tổng Thống Clinton vừa lên cầm quyền nên triển vọng thiết lập quan hệ ngoại giao tốt đẹp hơn. Năm 1992, Clinton đã cho phép ngân hàng thế giới trợ giúp Việt Nam. Nhưng công cuộc thiết lập quan hệ ngoại giao có lẽ bị trở ngại đôi chút khi một thương gia Việt Nam ở Florida, ông Lý Thanh Bình, tố cáo người hùn hạp của ông là Nguyễn Văn Hảo (15), một viên chức cao cấp của Việt Nam Cộng Hòa trước kia, đã làm trung gian cho chính quyền Cộng Sản để mưu hối lộ ông Harold Brown, chủ tịch đảng Dân Chủ, sau này làm bộ trưởng Bộ Thương Mại, để ông này nói giúp Clinton bỏ cấm vận. Theo ông Bình, Nguyễn Văn Hảo đã yêu cầu Việt Nam gửi qua ngân hàng Indosuez ở Singapore mà một phó chủ tịch là Lê Quang Uyển, bạn ông Hảo, một số tiền 700 ngàn Mỹ kim cho ông Brown. Dù lời khai của ông Bình đã được kiểm chứng qua máy phát hiện nói dối (lie detector), và báo New York Time xác nhận là có sự chuyển giao tiền bạc cho ngân hàng Indosuez, ông Brown đã không bị truy tố, nhưng chuyện này đã khiến Tổng Thống Clinton phải hoãn lại tiến trình thiết lập bang giao cho tới ngày 3-2-1994, Hoa Kỳ mới tuyên bố bãi bỏ cấm vận, chuẩn bị tái lập quan hệ ngoại giao.

.

Tranh chấp, thanh trừng sau Ðại Hội Ðảng lần thứ VII

Với sự thắng thế của khuynh hướng bảo thủ và giáo điều trong Bộ Chính Trị, Cộng đảng Việt Nam càng tỏ thái độ nhún nhường hơn với Trung Hoa Hai tuần lễ sau đại hội Ðảng, ngày 9-7-91, Tổng Bí Thư Ðỗ Mười gặp đại sứ Trung Hoa Trương Ðức Duy, ngỏ ý muốn cử “đặc phái viên” sang Trung Hoa để thông báo diễn tiến và kết quả của đại hội VII, một hành động gần giống như sai sứ cầu phong. Ðiều này làm cho Trung Hoa rất hài lòng, và dù trước đó đã đồng ý hội đàm cấp thứ trưởng giữa hai chính phủ vào đầu tháng 8, Trung Hoa lại muốn gặp “đặc phái viên” của đảng Cộng Sản trước. Biết được ban lãnh đạo Cộng đảng Việt Nam dễ thuyết phục hơn Bộ Ngoại Giao, Trung Hoa ngỏ ý muốn đổi danh xưng “đặc phái viên” thành “đoàn đại diện đặc biệt của Ban Chấp Hành Trung Ương đảng Cộng Sản Việt Nam,” gián tiếp loại ra ngoài các viên chức ngoại giao nhà nghề. Ðảng Cộng Sản Việt Nam cũng hiểu ý, nên đã gạt bỏ đại sứ Việt Nam tại Trung Hoa là Ðặng Nghiêm Hoành không cho tham dự các buổi họp, tuy đại sứ Trung Hoa tại Hà Nội là Trương Ðức Duy lại có mặt trong phái đoàn Trung Hoa. “Ðoàn đại diện đặc biệt” của Việt Nam sang Trung Hoa báo cáo gồm có ba người là Lê Ðức Anh, Chủ Tịch Nước, Hồng Hà, Bí Thư Trung Ương Ðặc Trách Ðối Ngoại và Trịnh Ngọc Thái, Phó Ban Ðối Ngoại của Ðảng.

Sau khi đã được báo cáo chi tiết về Ðại Hội Ðảng lần thứ VII, kể cả những ý kiến khác nhau, những tranh luận, những biểu quyết và những thay đổi nhân sự, Giang Trạch Dân và Lý Bằng lại bằng lòng hơn nữa khi nghe nói Nguyễn Cơ Thạch bị loại. Giang Trạch Dân nói: “Từ đáy lòng mình, tôi rất hoan nghênh kết quả đại hội VII của các đồng chí Việt Nam.” Sau khi được gặp Giang Trạch Dân và Lý Bằng, Lê Ðức Anh đã xin gặp Từ Ðôn Tín hai lần để xin lỗi về việc Nguyễn Cơ Thạch đã to tiếng với ông ta mấy tháng trước. Ngoài ra, phái đoàn của Lê Ðức Anh còn tìm gặp Kiều Thạch, chủ tịch quốc hội, người đã từng phụ trách tình báo và an ninh của Trung Hoa.

Biết là các nhà cầm quyền Trung Hoa sẽ cho nối lại quan hệ ngoại giao nếu Việt Nam tiếp tục nhượng bộ ở Căm Pu Chia, Lê Ðức Anh và Hồng Hà sau khi về nước đã ép Bộ Ngoại Giao phải gửi đi một thứ trưởng “không tiền án” với Trung Hoa là Nguyễn Dy Niên sang Bắc Kinh dự cuộc hội đàm chính thức giữa hai chính phủ về vấn đề Căm Pu Chia. Sợ rằng những viên chức ngoại giao không chịu nhượng bộ sẽ làm hỏng mưu định cầu hòa, Bộ Chính Trị cử thêm Trịnh Ngọc Thái đi theo phái đoàn để giám sát. Cuộc hội đàm một chiều theo ý của Trung Hoa đó dĩ nhiên đưa đến kết quả mỹ mãn, vấn đề Căm Pu Chia coi như đã được giải quyết. Sau cuộc hội đàm, Ngoại Trưởng Tiền Kỳ Sâm của Trung Hoa mời Ngoại Trưởng Việt Nam Nguyễn Mạnh Cầm sang thăm giao hữu và hai tháng sau, ngày 5-11-1991, đến lượt Ðỗ Mười cùng Võ Văn Kiệt được mời sang Bắc Kinh (6), ký thông cáo chung chính thức bình thường hóa quan hệ giữa hai nước. Tuy Việt Nam rất muốn được có quan hệ “môi hở răng lạnh” như trước kia, nhưng Trung Hoa lại không muốn thế giới nghi kỵ một liên minh cộng sản mà trở ngại cho chương trình “bốn hiện đại” nên chỉ chấp nhận một mối quan hệ “thân nhi bất cận, sơ nhi bất viễn, tranh nhi bất đấu” (thân nhưng không gần, sơ nhưng không xa, ganh đua nhau nhưng không đánh nhau) tức là “đồng chí chứ không đồng minh.” Tuy thế, trong một nghị quyết về ngoại giao tháng 6 năm 1992, Việt Nam đã xếp hạng Trung Hoa vào loại bạn chí cốt số một cùng với Bắc Hàn, Cuba, Ai Lao và Căm Pu Chia (bạn xếp hàng thứ hai là những nước Cộng sản cũ như Liên Xô và Ðông Âu, thứ ba là các nước lân bang Asean, thứ tư là những nước Phi châu, Tây Phương và Nhật Bản, đứng xếp hàng chót là Hoa Kỳ, một nước mà theo Việt Nam, luôn mưu toan phát động “diễn biến hòa bình” để phá hoại xã hội chủ nghĩa. Cũng như những từ ngữ đồng chí, chủ tịch, thủ trưởng… xuất phát từ Trung Hoa, “diễn biến hòa bình” cũng là một từ ngữ học được từ Trung Hoa (Trung Hoa đã dùng từ ngữ “he ping yan bian” này sau vụ Thiên An Môn năm 1989).

Ngoài bộ máy đảng lãnh đạo, việc quản lý nhà nước của Việt Nam là do Võ Văn Kiệt làm thủ tướng sau Ðại Hội Ðảng năm 1991. Chính phủ này gồm có:

– Ba Phó Thủ Tướng là Nguyễn Khánh, Phan Văn Khải và Trần Ðức Lương

– Bộ Trưởng Nông Nghiệp: Nguyễn Công Tấn

– Bộ Trưởng Xây Dựng: Ngô Xuân Lộc

– Bộ Trưởng Văn Hóa Thông Tin: Trần Hoàn.

– Bộ Trưởng Quốc Phòng: Ðoàn Khuê

– Bộ Trưởng Giáo Dục: Trần Hồng Quân

– Bộ Trưởng Tài Chánh: Hồ Tế (Hồ Tế là người sau khi về hưu, đã phải than là ngân sách nhà nước của Việt Nam đã phải nuôi ba miệng ăn: chính phủ, Ðảng và Mặt Trận Tổ Quốc).

– Bộ Trưởng Ngoại Giao: Nguyễn Mạnh Cầm. Nguyễn Mạnh Cầm là đại sứ Việt Nam tại Mạc Tư Khoa, được chọn lựa thay Nguyễn Cơ Thạch vì đã không dính dấp gì đến những bất hòa của Bộ Ngoại Giao với Trung Hoa năm 1990

– Bộ Trưởng Kỹ Nghệ: Ðặng Vũ Chú

– Bộ Trưởng Nội Vụ: Bùi Thiện Ngộ, trước kia là giám đốc công an Vũng Tàu sau đó là giám đốc công an thành phố HCM

– Bộ Trưởng Tư Pháp: Nguyễn Ðình Lộc

– Bộ Trưởng Lao Ðộng Và Thương Binh Xã Hội: Trần Ðình Hoan

– Bộ Trưởng Bộ Hải Sản: Nguyễn Tấn Trình

– Bộ Trưởng Y Tế Công Cộng: Ðỗ Nguyên Phương

– Bộ Trưởng Bộ Khoa Học, Kỹ Thuật Và Môi Trường: Ðặng Hữu

– Bộ Trưởng Bộ Kế Hoạch Và Ðầu Tư: Ðỗ Quốc Sâm

– Bộ Trưởng Bộ Thương Mại: Lê Văn Triết

– Bộ Trưởng Bộ Giao Thông Vận Tải: Bùi Danh Lưu

– Chủ Tịch Hội Ðồng Chống Tham Nhũng và Buôn Lậu: Nguyễn Kỳ Cẩm

– Chủ Tịch Ủy Ban Sắc Tộc: Hoàng Ðức Nghi

– Chủ Tịch Ủy Ban Chống Lụt và Ủy Ban Sông Cửu Long: Nguyễn Cảnh Ðịnh

– Chủ Tịch Quốc Hội là Nông Ðức Mạnh, thay cho Lê Quang Ðạo sang làm Chủ Tịch Mặt Trận Tổ Quốc

– Thống Ðốc Ngân Hàng Nhà Nước: Cao Sĩ Kiếm

– Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Ðội: Ðào Ðình Luyện, từng là Tư Lệnh Không Quân

– Chủ Nhiệm Tổng Cục Chính Trị Quân Ðội là Lê Khả Phiêu

Dưới sự hướng dẫn của Võ Văn Kiệt, Việt Nam tiếp tục chính sách đổi mới kinh tế. Từ khi còn là bí thư thành ủy thành phố Hồ Chí Minh, trước sự tê liệt của hệ thống kinh tế quốc doanh trong những năm đầu của thập niên 1980, Võ Văn Kiệt đã dám làm những điều không đúng với đường lối của trung ương như dùng những người Hoa còn ở lại trong nước buôn bán với Hồng Kông, thành lập những công ty Imex lấy tiền của Việt kiều, dùng những chuyên viên chế độ cũ như Nguyễn Xuân Oánh, thậm chí còn mời cả cựu Thủ Tướng Lý Quang Diệu của Tân Gia Ba làm cố vấn. Trong thời gian đó, phương cách kinh tế trong Nam khác biệt với miền Bắc đến nỗi Bộ Trưởng Ngoại Thương Lê Khắc (thời Tố Hữu làm phó thủ tướng đặc tránh kinh tế) khi vừa xuống máy bay ở phi trường Tân Sơn Nhất đã phê bình là “ngửi thấy mùi Nam Tư” (7). Nhưng Võ Văn Kiệt thật ra cũng chỉ cởi mở về kinh tế, còn về chính trị, ông vẫn xuôi theo đường lối chuyên chính của đảng Cộng Sản Việt Nam.

Hiến Pháp năm 1992 tái xác nhận Việt Nam tiếp tục theo đuổi chế độ độc đảng song song với chính sách “kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa.” Ðiều 4 của Hiến Pháp 1992 viết: “Ðảng Cộng Sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, theo chủ nghĩa Mác Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh…” (8). Sau khi vào năm 1982 đã bỏ câu “tư tưởng Mao Trạch Ðông” trong hiến pháp và điều lệ đảng thì giờ đây, trước sự khủng hoảng ý thức hệ, đảng Cộng Sản Việt Nam thêm vào lời mở đầu hiến pháp “tư tưởng Hồ Chí Minh,” một loại “tư tưởng” mơ hồ, rời rạc, góp nhặt và tùy tiện, nhưng vẫn được những cán bộ thông tin văn hòa tâng bốc. Chẳng hạn trước kia có lúc ông trích câu châm ngôn của Trung Hoa “dĩ bất biến ứng vạn biến,” lúc sau này có cả chục bài viết lấy từ câu trích dẫn đó ra rồi tán tụng cách áp dụng của ông, sau đó đề cao ông như một triết gia tài ba, siêu việt. Do sự cần thiết phải đổi mới kinh tế, quyền hạn của Võ Văn Kiệt được tăng lên đôi chút. Danh xưng “chủ tịch hội đồng bộ trưởng” nhằm nhấn mạnh đến chỉ huy tập thể được thay trở lại bằng danh xưng “thủ tướng.” Trước kia, bộ trưởng do quốc hội bầu lên và đều là những đại biểu quốc hội. Sau 1992, thủ tướng có quyền lựa chọn bộ trưởng, trong hay ngoài quốc hội, nhưng những bộ trưởng này vẫn phải được quốc hội chấp thuận. Trên nguyên tắc, thủ tướng cũng có quyền bãi nhiệm thứ trưởng trở xuống hay các viên chức hành chánh địa phương (cấp bộ trưởng trở lên thuộc diện “trung ương quản lý,” tức là do trung ương đảng trách nhiệm). Tuy là thủ tướng, nhưng Võ Văn Kiệt chỉ có thể tương đối tự do trong những phạm vi kinh tế, giáo dục.., còn những ngành quốc phòng, công an hay thông tin báo chí đều bị những phần tử bảo thủ như Lê Ðức Anh, Ðỗ Mười, Ðào Duy Tùng thao túng. Không thể để lọt một khe hở nào, dù quốc hội chỉ là một cơ quan hình thức, danh sách được đảng cho ra ứng cử dân biểu quốc hội kỳ này cũng giảm đi tối đa những thành phần ngoài đảng. Bà Ngô Bá Thành là một trong vài người hiếm hoi được đảng cho ra ứng cử nhưng lại không trúng cử.

Do sự sụp đổ của đế quốc Xô Viết, chế độ Cộng sản Việt Nam cảm thấy bị lung lay. Những lãnh tụ Cộng đảng suy luận rằng những chính quyền Cộng sản bị sụp đổ là vì đảng đã không kiểm soát và chỉ huy được quân đội. Tại Liên Xô và Ðông Âu, quân đội đã không chịu nghe lệnh đảng để đàn áp nhân dân. Tại Trung Hoa, trong vụ Thiên An Môn, quân đoàn 38 tại quân khu Bắc Kinh đã từ chối không đàn áp sinh viên khiến cho chính phủ đã phải huy động các quân đoàn khác từ xa tới. Vì thế, một mặt đảng gia tăng ngân sách quốc phòng, củng cố lại hệ thống đảng ủy trong quân đội, mặt khác, tăng cường vị thế của quân đội trong trung ương đảng và Bộ Chính Trị. Năm 1986, tỷ số ủy viên quân đội trong trung ương đảng chiếm 7%, tới năm 1991, tỷ số này tăng lên 10.2% (15 người trong 146 ủy viên được bầu). Ngoài ra, nếu nghị quyết năm 1986 chỉ đòi hỏi quân đội phải “tôn trọng và quan hệ mật thiết” với những đảng bộ địa phương thì điều 28 của nghị quyết năm 1991 nói rõ là những đơn vị quân đội phải được đặt dưới sự lãnh đạo của các đảng ủy địa phương.

Cũng kể từ đại hội đảng năm 1991, những đảng viên quân đội bắt đầu được nắm những chức vụ cao cấp then chốt. Trong Bộ Chính Trị mười ba người, Lê Ðức Anh được đứng hàng thứ hai và Ðoàn Khuê, bộ trưởng quốc phòng đứng hàng thứ năm. Tháng 9 năm 1991, Lê Ðức Anh được đề cử làm chủ tịch nhà nước. Nhờ đại diện cho quân đội, một cơ chế được coi là “xương sống” của đảng, chức vụ chủ tịch Nhà nước do Lê Ðức Anh nắm giữ được tăng cường quyền hành để thăng bằng với quyền hành của thủ tướng do Võ Văn Kiệt nắm giữ. Hơn nữa, Lê Ðức Anh lại còn được kiêm nhiệm luôn chức vụ chủ tịch hội đồng Quốc phòng và tổng tư lệnh quân đội. Nhờ thế, kể từ 1969, sau khi Hồ Chí Minh chết, qua những đời Tôn Ðức Thắng, Trường Chinh, Võ Chí Công… Lê Ðức Anh là một chủ tịch nhà nước có quyền lực rất lớn, giám sát luôn cả những trách vụ quốc phòng, ngoại giao lẫn công an của chính phủ. Ngoài ra, trong bộ ba Ðỗ Mười, Lê Ðức Anh và Võ Văn Kiệt, mỗi khi có tranh chấp, Ðỗ Mười thường đứng về phe Lê Ðức Anh, cho nên trong đảng Cộng sản Việt Nam, người ta còn phân biệt ra hai khối: đảng và chính phủ (tuy cầm đầu chính phủ cũng là những đảng viên). Trong quốc hội, quân đội cũng chiếm giữ 38 ghế (9.6%), trong đó ngoài Lê Ðức Anh, Ðoàn Khuê, Ðào Ðình Luyện, Lê Khả Phiêu còn có Ðặng Quân Thụy (Tư Lệnh Quân Khu II), Phạm Văn Trà (Quân Khu IIII), Nguyễn Trọng Xuyên (Tổng Cục Tiếp Vận), Phan Thứ (Tổng Cục Kinh Tế và Kỹ Nghệ Quốc Phòng)… Ðặc biệt trong kỳ bầu cử quốc hội năm 1992, ông Nguyễn Thanh Giang, tiến sĩ địa chất đã tự mình ra ứng cử quốc hội và đã được đến 96% số phiếu. Ðảng Cộng sản một mặt bịa ra một qui luật là bắt ông phải qua một vòng tuyển chọn tại cơ sở nơi ông làm việc, mặt khác áp lực những người cùng cơ sở với ông phải bỏ phiếu loại ông ra. Sau khi ông viết và phổ biến bài Nhân Quyền – Khát Vọng Ngàn Năm, ông bị công an sách nhiễu nhiều lần và ngày 4-3-1999 thì chính thức bị bắt về tội “lạm dụng quyền tự do dân chủ,” nhưng không bị đưa ra tòa và được thả vào tháng sau.

Sự gia tăng thế lực của quân đội trong Bộ Chính Trị (4 ủy viên) và trong Trung Ương Ðảng đã làm quân đội trở nên một thế lực mạnh mẽ không những về chính trị mà còn về kinh tế. Nhờ đó mà từ 1990, Tổng Cục Kinh Tế của quân đội đã ngày càng phát triển mạnh mẽ. Tới 1993 thì đã có khoảng 70 ngàn quân nhân phục vụ trong các ngành kinh tế thuộc gần 300 công ty do quân đội kiểm soát. Những công ty này kinh doanh trong các ngành điện, dầu khí, xây dựng (xa lộ nối Hà Nội với phi trường Nội Bài là do quân đội thiết lập)… Công ty lớn nhất là Tổng Công Ty Xây Dựng Trường Sơn gồm có 19 công ty lớn nhỏ về xây cất, đặt đường xe lửa, trồng cà phe… Các công ty khác như tổ hợp hàng không của không quân dùng trực thăng chở chuyên viên đến những mỏ dầu, cung cấp dịch vụ chuyên chở y tế cấp cứu, tìm người Mỹ mất tích. Công ty Tây Nguyên của quân đoàn 15 chuyên về canh nông, công ty Ðông Bắc khai thác than, công ty Hóa Chất số 21. Ngoài ra cũng có cả Ngân Hàng Thương Mại Quân Ðội, khách sạn Saigon Star Hotel. Năm 1994, Võ Văn Kiệt còn ký nghị định cho phép công ty viễn thông Vietel của quân đội được cạnh tranh với tổng cục Bưu Ðiện trong những dịch vụ viễn liên (9).

Song song với việc gia tăng thế lực của quân đội, ngành công an cũng được củng cố nhưng đã không hoàn toàn đàn áp được những tiếng nói phản kháng. Năm 1993, ông Hoàng Minh Chính, đã được thả ra sau khi bị giam cầm nhiều năm, gửi thư cho Ðảng và chính phủ phản đối về việc đã bắt giữ ông trái phép, sau đó vợ của tướng Ðặng Kim Giang cũng công khai tố cáo đích danh Lê Ðức Thọ đã mưu hại và bôi lọ chồng và cả gia đình của bà (10). Do những người bị oan ức gửi đơn khiếu nại, Trung Ương Ðảng cử hai đảng viên đã về hưu là Nguyễn Trung Thành, cựu vụ trưởng vụ bảo vệ đảng, người đã từng tích cực tuân lệnh Lê Ðức Thọ và Lê Duẩn để kết tội nhóm xét lại, và Lê Hồng Hà, cựu ủy viên đảng đoàn Bộ Công An để coi lại hồ sơ vụ án. Nhưng khi hai người đưa báo cáo cho Ðỗ Mười, chứng minh là những người bị án đều bị oan ức, những chứng cớ chỉ là giả tạo, và xin trung ương đảng giải oan cho những người liên quan đến vụ án thì Ðỗ Mười gạt đi, nói là Trung Ương Ðảng đã kết tội thì chắc chắn là họ có tội. Ông Nguyễn Trung Thành cảm thấy ân hận nên đã trực tiếp xin lỗi những người bị án oan và cùng ông Lê Hồng Hà công khai phổ biến sự ghép tội vô căn cứ của Ðảng. Vì việc này, hai ông bị trục xuất khỏi Ðảng và liên tục bị công an làm khó dễ. Ông Hà còn bị kết án tù hai năm. Những người bị án còn sống hay gia đình họ đều thông cảm và tha thứ ông Thành. Riêng ông Phùng Văn Mỹ, cựu giáo sư trường Ðảng từng bị tù từ 1967 đến 1976 thì nói là mặc dù ông rất cảm động trước hành động của ông Thành, nhưng ông không cần được giải oan hay phục hồi đảng tịch, vì ông đang được sống cho chính ông. Ông không còn phải làm nô lệ hay nhân viên của bất cứ địa hạt nào trong bộ máy chuyên chính. Ông viết: “Còn về mặt tâm hồn, thì chúng tôi đang sống một cuộc sống thanh thản, không còn bị trói buộc vào một cơ chế máy móc nào. Chúng tôi đang thực hiện lời dạy của người xưa ‘Phú quí bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất’. Và như thế thì cần gì phải có ai ‘cứu’ nữa. ‘Cứu’ để rồi được trở lại cách sống cũ ư? Quả là một điều hãi hùng! (11).

Khi ông Hoàng Minh Chính bị vào tù, ông Nguyễn Khắc Toàn đã giúp cho bà Chính viết kháng thư. Nguyễn Khắc Toàn là một bộ đội phục viên từng chiến đấu trong Nam. Sau 1975, ông thấy thất vọng với chế độ, và đã giúp phổ biến những lá thư đòi tự do dân chủ của Nguyễn Thanh Giang, Trần Ðộ, Trần Dũng Tiến…

*

Vì đảng Cộng Sản Việt Nam đã bỏ cơ chế thời Brezhnev cũ là các chức Chủ Tịch Hội Ðồng Nhà Nước và Chủ Tịch Hội Ðồng Bộ Trưởng mà thay bằng các chức Chủ Tịch Nhà Nước và Thủ Tướng với quyền hạn rộng lớn hơn, ban lãnh đạo của Việt Nam được coi như một tam đầu chế của Mười, Anh, Kiệt. Mỗi người có những hậu thuẫn khác nhau, những trách vụ khác nhau. Ðỗ Mười với tư cách Tổng Bí Thư Ðảng được coi là người có nhiều quyền lực nhất. Người thứ hai là Lê Ðức Anh, tương đối có khuynh hướng bảo thủ nhất, nắm được hậu thuẫn của công an và quân đội. Nhờ kiêm nhiệm luôn chức Chủ Tịch Hội Ðồng Quốc Phòng, Lê Ðức Anh có ảnh hưởng mạnh mẽ đối với quốc phòng, nội trị và đối ngoại, nhất là đối với Trung Hoa.

Do tư thế đó, vào giữa năm 1994, Lê Ðức Anh đưa được Lê Khả Phiêu, chủ nhiệm Tổng Cục Chính Trị Quân Ðội vào Bộ Chính Trị trong khi thượng cấp của Lê Khả Phiêu là Ðào Ðình Luyện, Tham Mưu Trưởng Quân Ðội lại không được vào. Ðào Ðình Luyện, một người nghiêng về đổi mới, sau đó cũng bị Lê Ðức Anh cùng Ðào Duy Tùng loại khỏi chức vụ. Cùng bị loại với Ðào Ðình Luyện là một số tư lệnh quân khu. Kể từ đó, Lê Ðức Anh trở nên một Chủ Tịch Nhà Nước có thế lực mạnh nhất sau khi Hồ Chí Minh chết và thế lực này đã kéo dài nhiều năm sau.

Tuy chỉ đứng hàng thứ ba và đứng đầu phe đổi mới, một phe chiếm thiểu số trong Bộ Chính Trị, nhưng Võ Văn Kiệt cũng có một tư thế mạnh mẽ vì nhờ những biện pháp kinh tế của ông, kinh tế Việt Nam đã bắt đầu tăng trưởng. Ngoài ra ông lại là người miền Nam trong khi Ðỗ Mười người miền Bắc và Lê Ðức Anh miền Trung. Ngoài hậu thuẫn của các tỉnh ủy viên miền Nam và các viên chức cao cấp của chính phủ, Võ Văn Kiệt còn được uy tín với những nhà đầu tư ngoại quốc. Vì thế, ông ta được tương đối tự do khi thi hành những biện pháp kinh tế cởi mở. Trong khi đó, Ðỗ Mười có nhiều ảnh hưởng trong nội bộ Ðảng. Tuy căn bản là một người bảo thủ, nhưng vì quyền lợi riêng và để giữ tư thế Tổng Bí Thư, đã không phải luôn luôn ủng hộ Lê Ðức Anh. Ba phe này trong suốt những năm từ 1991 đến 1994 bề ngoài đã không có những dấu hiệu chia rẽ hay chỉ trích nhau.

Phe bảo thủ không thể không biết đến những thành quả kinh tế phát triển và đó là một yếu tố quan trọng giúp cho chế độ độc đảng của họ có thể tiếp tục tồn tại. Hơn nữa, ngay cả phe quân đội cũng hưởng lợi khi họ cũng có những tổ hợp rất lớn như những công ty xây dựng, cơ khí, hóa chất, hàng không, thông tin, điện tử… để kinh tài nên đã không mạnh mẽ phản đối cởi mở kinh tế. Nhờ tình hình kinh tế trong vùng đang thịnh vượng và Việt Nam là một vùng thị trường tương đối chưa được khai thác, trong mấy năm đầu của thập niên 1990, kinh tế Việt Nam mỗi năm tăng khoảng 8%. Kinh tế càng khá hơn, phe đổi mới càng cảm thấy tự tin, càng được rảnh tay nên họ cũng không muốn đụng chạm gì với phe thủ cựu. Tình trạng chịu đựng nhau để hợp tác này của hai phe đã kéo dài được khoảng 3 năm, cho tới năm 1995, khi đảng Cộng Sản dự trù họp Ðại Hội Ðảng Lần Thứ VIII vào cuối tháng 6, 1996, thì cả hai phe bắt đầu huy động lực lượng để tranh giành quyền lực một cách quyết liệt hơn.

.

______________

Chú thích:

1. Trích thư của Võ Nguyên Giáp gửi Trung Ương Ðảng năm 1991.

2. Về Ðặng Ðình Loan, theo cựu Ðại Tá Nhà Báo Nguyễn Trần Thiết, Loan đã bỏ Ðảng 20 năm. Nhờ thế lực của Lê Ðức Anh, được phục hồi đảng tịch và khuyến dụ được Thành Ủy Huế mời nói chuyện ngày 20-11-96 tại khách sạn Thắng Lợi. Trong buổi nói chuyện, Loan nói người chỉ huy Ðiện Biên Phủ là Nguyễn Chí Thanh chứ không phải Võ Nguyên Giáp. Ngoài ra Loan còn tố Giáp thân Liên Xô, và là nguyên nhân của những thiệt hại trong trận Mậu Thân. Người cho phép Loan nói chuyện là Tỉnh Ủy Thừa Thiên tên Vũ Thắng, sau đó mất chức.

3. Ông Nguyễn Xuân Oánh hồi nhỏ được phong trào Ðông Du đưa qua học ở Nhật Bản, sau đó qua Hoa Kỳ tốt nghiệp Ðại Học Harvard, trở về miền Nam làm phó thủ tướng đặc trách kinh tế một thời gian. Nhờ vợ là Thẩm Thúy Hằng, trước đây là một minh tinh màn bạc ở miền Nam, có liên hệ họ hàng với Võ Văn Kiệt nên ông được Võ Văn Kiệt lãnh ra khỏi tù và cử làm Trưởng Ban Cố Vấn Kinh Tế trong thời gian Võ Văn Kiệt làm Bí Thư Thành Ủy hồi năm 1981 (hồi ký của Giáo Sư Nguyễn Như Cương). Nhờ sự cố vấn của ông, kinh tế của thành phố HCM đã vượt qua được những khó khăn do hậu quả của cuộc cải tạo công thương nghiệp. Mấy năm sau, ông lập một hãng cố vấn thương mại và tài chánh (NX Oanh Associates) ở Sài Gòn. Một trong những người hùn hạp với ông là Colby, cựu giám đốc CIA (tài liệu trong cuốn Dragon Ascendent). Trong hồi ký, ông Nguyễn như Cương đã viết về Nguyễn Xuân Oánh với sự quí trọng.

4. Ngô Bá Thành, tên thật Phạm Thanh Vân, con của thú y sĩ Phạm Văn Huyến, được Tạ Bá Tòng móc nối. Sau khi bị Tổng Thống Diệm đẩy ra Bắc, ông Huyến sống chật vật trong bóng tối. Ngay sau 1975, ông mới được kêu ra và cho biết bà Thành, con ông sẽ được cho làm Chủ Tịch Ủy Ban Nhân Dân thành phố HCM. Nhưng chẳng may cho bà Thành (và ông Huyến), chuyện này không xảy ra.

5. Về kẻ địch “diễn biến hòa bình” của báo Quân Ðội Nhân Dân: Có lần, báo QÐND đã lên tiếng cảnh giác những “Tây ba lô” (du khách Pháp nghèo nhiều khi sống lưu lạc trên đường phố) có thể là kẻ địch. Lần khác, báo tố cáo những nhà đầu tư đến họp hội nghị hay hội thảo có thể là những nhân viên đế quốc đến điều tra, do thám để phục vụ trong những âm mưu diễn biến hòa bình. (Robert Templer trong Shadows and Wind). Kể từ 1991, dù Trung Hoa vẫn hiển nhiên là mối đe dọa chính cho an ninh lãnh thổ, hai tờ báo chính thức là Nhân Dân và Quân Ðội Nhân Dân tuyệt không có bài vở hay tin tức nào có thể làm mất lòng Trung Hoa.

6. Theo Tiến Sĩ Nguyễn Thanh Giang, đài truyền hình có chiếu lại cảnh Ðỗ Mười sang gặp Giang Trạch Dân ở Bắc Kinh. Lúc đó, Ðỗ Mười đã muốn chứng tỏ sự kính ái của mình với những lãnh tụ Cộng Sản Trung Hoa nên đã xồng xộc chạy lên lễ đài ôm chầm lấy Giang Trạch Dân “ôm hôn thắm thiết,” khiến ông này ngạc nhiên đến sững sờ.

7. Nhận xét của Lê Khắc: trong bài Ðêm Trước Ðổi Mới (thanhnien online).

8. Câu “Tư Tưởng Hồ chí Minh” đặt trong lời mở đầu của hiến pháp Việt Nam cũng giống như Trung Hoa. Mấy năm sau này, khẩu hiệu của Trung Hoa là “dưới sự lãnh đạo của đảng Cộng Sản Trung Hoa, nhân dân Trung quốc lấy chủ nghĩa Mác-Lê Nin, tư tưởng Mao Trạch Ðông, lý luận Ðặng Tiểu Bình và tư tưởng quan trọng ‘Ba đại diện’ làm chủ đạo…” (tư tưởng ba đại diện là của Giang Trạch Dân, đưa ra trong Ðại Hội Ðảng năm 2002, theo đó đảng Cộng Sản là đại diện các lực lượng sản xuất tiến bộ, của nền văn hóa tiến bộ, cho lợi ích của đa số nhân dân Trung Hoa. Vì thế, đảng không những chỉ đại diện cho giai cấp công nhân mà còn đại diện thêm giai cấp trí thức và tư sản yêu nước). Chỉ có điều khác nhau là Cộng Sản Việt Nam chưa viết thêm .”..lý luận Ðỗ Mười, tư tưởng quan trọng Lê Khả Phiêu…” vào mở đầu điều lệ Ðảng.

9. Kinh tế quân đội trích bài “L’armée Vietnamienne, acteur du development economique’ của Carlyle Thayer và Gerard Hervonet

10. Những người bị Lê Duẩn và Lê Ðức Thọ gán cho tội “xét lại” năm 1963 gồm có các ông: Hoàng Minh Chính, từng là Viện Trưởng Viện Triết Học, Tướng Ðặng Kim Giang, Phó Chủ Nhiệm Tổng Cục Hậu Cần, Vũ Ðình Huỳnh, Vụ Trưởng Vụ Lễ Tân, Trần Minh Việt, Phó Bí Thư Thành Ủy Hà Nội, các Ðại Tá Lê Trọng Nghĩa, Cục Trưởng Quân Báo, Lê Minh Nghĩa, Chánh Văn Phòng Bộ Quốc Phòng, Ðỗ Ðức Kiên, Cục Trưởng Cục Tác Chiến, Hoàng Thế Dũng, Phó Tổng Biên Tập Báo QÐND…, các nhà văn, nhà báo như Vũ Thư Hiên, Phó Tổng Biên Tập Tạp Chí Học Tập Phạm Kỳ Vân, những ông Nguyễn Kiến Giang, Trần Thư, Phạm Viết, Phùng Văn Mỹ, Nguyễn Cận, Mai Lâm, Mai Hiến, Minh Tranh, bà Nguyễn Thị Ngọc Lan (giáo sư Anh ngữ, vợ nhà báo Phạm Viết), Trung Tá Công An Bùi Hồng Sĩ (được nhắc đến trong ‘Truyện Kể Năm 2000’ của Bùi Ngọc Tấn)… Tất cả đều bị tù đày nhiều năm. Một số người khác như Lê Liêm (cựu thứ trưởng), Ung Văn Khiêm (cựu Bộ Trưởng Ngoại Giao), Bùi Công Trừng, Nguyễn Văn Vịnh… không bị bắt nhưng bị khai trừ khỏi Ðảng. Ông Nguyễn Minh Cần, Phó Chủ Tịch Ủy Ban Nhân Dân Hà Nội cùng Ðại Tá Lê Vinh Quốc, Phó Chính Ủy Quân Khu III, cũng như Thượng Tá Ðỗ Văn Doãn, Tổng Biên Tập Báo QÐND phải ở lại Liên Xô.

11. Thư của Phùng Văn Mỹ gửi ông Nguyễn Trung Thành (trong Tử Tù Tự Xử Lý của Trần Thư). Cuối thư ông còn viết: “Trong cái mất, chúng tôi thấy cái được và cái được lớn nhất, vô giá, đó là sự giải thoát. Vì thế quả là bất công nếu có ai đó thương hại chúng tôi. Tự do ở thời nào cũng quí, nhưng thứ tự do có được bằng sự đổi chác hay áp đặt thì không đáng giá một xu. Chỉ có sự tự tại mới là thứ tự do mang tính tuyệt đối.”

*

Sau Ðại Hội VIII, năm 1997 là một năm xảy ra nhiều biến cố đối với Việt Nam. Dù cho cơn khủng hoảng kinh tế tại các nước Á Châu như Thái Lan, Singapore, Ðại Hàn, Nhật Bản… phải nửa năm sau mới ảnh hưởng tới Việt Nam, nhưng kinh tế Việt Nam trong năm 1997 cũng đã có những dấu hiệu suy thoái. Ngoài cơn bão Linda gây cảnh bão lụt tại miền Nam và miền Trung khiến mức sản xuất lúa gạo bị giảm sút, một lý do khác là hệ thống ngân hàng của Việt Nam chưa vững mạnh khiến cho những công ty ngoại quốc phải ngần ngại khi đầu tư và cuối cùng, lý do quan trọng nhất là sự lãng phí và kém hiệu quả của những công ty quốc doanh. Từ năm 1997, số tiền ngoại quốc đầu tư tại Việt Nam mỗi ngày một giảm. Một số công ty ngoại quốc đã phải đóng cửa hoặc vì lỗ lã, hoặc do những trở ngại hành chánh hay tham nhũng. Tuy thế, những phần tử bảo thủ vẫn muốn duy trì và phát triển những công ty này vì “định hướng xã hội chủ nghĩa” là niềm hy vọng duy nhất của họ để sẽ có một ngày, tất cả đều sẽ trở lại là kinh tế nhà nước, tất cả sẽ chỉ còn là những công ty quốc doanh.

Cơn khủng hoảng kinh tế của các nước Ðông Nam Á như Thái Lan, Ðại Hàn, Nhật Bản… năm 1997 khiến cho họ nghĩ đường lối kinh tế chỉ huy là đúng đắn và càng làm cho họ cứng rắn hơn nữa để kiềm hãm đà đổi mới. Những biện pháp đổi mới mấy năm trước đã làm đời sống người dân tương đối thoải mái hơn trước, nhưng so với những nước lân bang, người dân Việt Nam vẫn còn rất nghèo. Theo thống kê của Ngân Hàng Thế Giới, lợi tức bình quân hàng năm mỗi người dân Việt năm 1997 là 350 Mỹ kim, chỉ ngang với Bangladesh. Trong khi đó, lợi tức hàng năm của người dân Phi Luật Tân cao hơn gấp ba lần (1,000 Mỹ kim), Thái Lan cao hơn gấp 7 lần (hơn 2,000 Mỹ kim). Dù có những biện pháp cởi mở về nông nghiệp, lợi tức của nông dân vẫn thua xa người dân thành thị. Thống kê của Bộ Nông Nghiệp cho biết sau khi trừ hết chi phí, lợi tức trung bình của nông dân là dưới 100 Mỹ kim, trong khi lợi tức trung bình dân Hà Nội là 800 Mỹ kim, Sài Gòn 1,000 Mỹ kim.

Trước hoàn cảnh đời sống khốn khó và bị chèn ép, tháng 5 năm 1997, nông dân tỉnh Thái Bình vùng lên biểu tình phản đối những cán bộ địa phương tham nhũng, đặt ra những thuế khóa vô lý (thuế đất, thuế thầy giáo…), trả tiền lúa gạo mà nông dân bán ra thật rẻ so với giá thị trường, chiếm hữu đất đai cho gia đình, bạn bè, lại ép nông dân phải xung phong lao động xã hội chủ nghĩa không công ít ra là 10 ngày trong năm. Việc đánh thuế vô lý đến nỗi tiền thuế thu được trong 3 năm từ 1994 đến 1997 của tỉnh Thái Bình bội thu hơn con số dự trù của trung ương đến 176 tỷ đồng (khoảng 16 triệu Mỹ kim). Khởi xướng và đứng đầu những cuộc biểu tình phản đối ở Thái Bình đều là những cán bộ hoặc bộ đội về hưu, họ đã tổ chức biểu tình qui mô, cho người già và trẻ em đi trước, cựu cán bộ đi sau, sau đó mới là thanh niên.

Suốt từ tháng 5 đến tháng 12, ký giả hoặc nhân viên những tổ chức thiện nguyện ngoại quốc đều bị cấm không được đến tỉnh Thái Bình. Mới đầu, những cuộc biểu tình còn ôn hòa, nông dân chỉ mong muốn được giảm thuế, nhưng vì chính quyền địa phương không chịu giải quyết nên đã trở nên bạo động. Một số nông dân và viên chức bị tử thương, nhất là ở huyện Quỳnh Phú. Công an và ủy ban hành chánh nhiều xã đã phải bỏ nhiệm sở chạy trốn. Những cuộc biểu tình này đã diễn ra trong nhiều tháng. Chính quyền trung ương ở Hà Nội phải đem 1,200 công an đặc biệt từ những nơi khác đến để ngăn chận không cho phong trào chống đối lan tràn. Ðồng thời, đảng cử Phạm Thế Duyệt, một ủy viên Bộ Chính Trị người tỉnh Thái Bình đến dàn xếp. Chính quyền đã phải công nhận lầm lỗi, giải nhiệm một số viên chức địa phương, đưa ra một vài biện pháp xoa dịu. Nhưng mặt khác, họ cũng đã bắt một số người biểu tình đưa lên đài truyền hình ép phải thú nhận tội lỗi là đã có hành động “chống đối” lại Ðảng và nhà nước. Trong một bài báo đăng ở báo Ðảng, bí thư tỉnh ủy Thái Bình Nguyễn Xuân Lai tiếp tục coi những người đạo Công Giáo trong tỉnh là những phần tử khả nghi và kêu gọi Ðảng phải tăng cường cảnh giác.

Sau nhân dân tỉnh Thái Bình, đến tháng 11, 1997, đến lượt nhân dân tỉnh Ðồng Nai (Biên Hòa cũ). Tại vùng đất của dân Công Giáo, giáo dân biểu tình phản đối những cán bộ địa phương đã ngang nhiên truất hữu đất đai nhà thờ. Tuy nhân dân tỉnh Ðồng Nai không được xếp hạng là thành phần tốt đối với chính quyền, nhưng họ đã biểu tình ngay trên quốc lộ 1, ngăn chặn con đường lưu thông huyết mạch Bắc Nam và đã chọn thời gian biểu tình vào lúc có một hội nghị quốc tế gồm những nước biết nói tiếng Pháp tổ chức ở Hà Nội để gây tiếng vang. Như thường lệ, chính quyền phong tỏa tỉnh Ðồng Nai, cấm người ngoại quốc lai vãng và trên báo chí quốc nội, không một báo nào được phép đăng tin. Phạm Thế Duyệt lại đóng vai trò dàn xếp và chính quyền lại hứa hẹn sửa sai. Một thời gian sau, Bộ Trưởng Phát Triển Nông Thôn là Nguyễn Công Tấn bị mất chức.

Hiển nhiên là những phản kháng của nông dân đã gây chấn động trong hàng ngũ lãnh đạo. Vào tháng 8, Bộ Nông Nghiệp loan báo ban hành “mười chính sách lớn” cho nông thôn, gồm có tu sửa, cải thiện hệ thống đường sá, giảm thế khóa cho nông dân và thiết lập một qui chế sở hữu đất đai rõ ràng, không cho cán bộ lạm dụng. Ngày 21-11-1997, Thủ Tướng Phan Văn Khải trong diễn văn đọc trước quốc hội cũng nhấn mạnh đến chương trình cải tạo nông thôn, còn Tổng Bí Thư Ðỗ Mười trước khi từ chức, cũng kêu gọi phải diệt trừ tham nhũng trong hàng ngũ Ðảng viên.

Tuy nhiên, vấn đề diệt trừ tham nhũng trong nội bộ Ðảng kể trên chỉ được thi hành theo những ý hướng và mục tiêu chính trị. Dù báo chí đã được Hữu Thọ, Trưởng Ban Tư Tưởng Văn Hóa của Ðảng cho là “tiếng nói của Ðảng, của nhà nước, của những tổ chức xã hội và là diễn đàn của nhân dân” (ngày 25-8-97), nhưng chỉ hai tháng sau, ký giả Nguyễn Hoàng Linh, tổng biên tập báo Doanh Nghiệp bị bắt vì đăng bài phanh phui những gian lận liên quan đến việc mua 4 tàu tuần cho Cục Thuế Quan. Tòa soạn những báo Hà Nội Mới, Tiền Phong, Thương Mại Pháp Luật cũng bị tra xét vì bị nghi ngờ với cùng một tội là “tiết lộ bí mật quốc gia.” Cũng trong tháng đó, một phóng viên hãng Reuter bị hành hung và bị bắt về Bộ Nội Vụ tra hỏi khi anh ta chụp hình một toán phụ nữ biểu tình ở công viên Ba Ðình. Tháng 12, 1997, nhà văn Phạm Văn Viêm bị công an Việt Nam bắt cóc ở Bulgary và mang về Hà Nội sau khi anh dịch cuốn “Chế Ðộ Phát Xít” (The Fascist Regime) của Tổng Thống Zhelev, vị tổng thống Bulgary không cộng sản đầu tiên của Bulgary. Anh bị giam và lúc sau này không nghe tin tức. Những học giả, nhà thơ, nhà văn như Bùi Minh Quốc, Tiêu Dao Bảo Cự, Hà Sĩ Phu cũng bị làm khó dễ và theo dõi. Trong thời kỳ tiền hội nghị của những quốc gia nói tiếng Pháp tại Hà Nội tháng 11-1997, khi Liên Ðoàn Phóng Viên và Ký Giả thảo một thông tư trong đó có đoạn lên án sự đàn áp báo chí tại 16 trong 49 quốc gia tham dự. Tuy thông tư này không chỉ đích danh một nước nào, nhưng Phan Bằng, chủ tịch Hội Phóng Viên Việt Nam của nhà nước đã cực lực phản đối vì Việt Nam coi đó là chuyện “can thiệp vào nội bộ quốc gia.”

Cuối năm 1997, do quyết định từ Ðại Hội Ðảng hơn một năm trước, Ðỗ Mười bị bó buộc phải từ chức và Lê Khả Phiêu được đề cử làm Tổng Bí Thư. Trong tình trạng tranh chấp giữa bộ ba cầm quyền năm trước, Lê Khả Phiêu dần dần đã được lợi thế. Ðối thủ sáng giá duy nhất trong Bộ Chính Trị của Lê Khả Phiêu là Nguyễn Văn An, trưởng Ban Tổ Chức Ðảng, nhưng Lê Khả Phiêu có nhiều điều kiện thuận lợi hơn là được ở trong Ban Thường Vụ Bộ Chính Trị, lại là trưởng Ban Bảo Vệ Chính Trị của Ðảng. Cả đời là chính ủy, không có cơ hội làm giàu, đời tư Lê Khả Phiêu trong sạch hơn Nguyễn Văn An. Ngoài ra, vụ rối loạn ở Thái Bình khiến Trung Ương Ðảng muốn có một người lãnh đạo cứng rắn.

Tuy nhiên, dù được lên làm Tổng Bí Thư, Lê Khả Phiêu đã không có một hậu thuẫn chính trị vững mạnh nên đã phải đu dây giữa hai phe bảo thủ và cấp tiến, tuy ông ta đã dựa vào phe bảo thủ nhiều hơn. Nhưng ngay trong Ðảng và trong phe bảo thủ, Ðỗ Mười lại có nhiều uy tín và ảnh hưởng hơn Lê Khả Phiêu. Là một trong ba “cố vấn,” dù đã về hưu nhưng Ðỗ Mười vẫn có quyền tham dự những buổi họp của Bộ Chính Trị và Lê Khả Phiêu sở dĩ được lựa chọn cũng nhờ ảnh hưởng của Ðỗ Mười. Vì thế, trong bộ ba cố vấn, Ðỗ Mười xem thường Lê Khả Phiêu nhất. Trong những buổi họp của Bộ Chính Trị, ông ta hay xen vào những cuộc thảo luận, nhiều khi lấn át cả Lê Khả Phiêu khiến mọi người đều nhận thấy Lê Khả Phiêu là một Tổng Bí Thư yếu thế. Quân đội cũng không hết lòng ủng hộ Lê Khả Phiêu. Bản chất là một chính ủy, Lê Khả Phiêu tìm hậu thuẫn với phe bảo thủ bằng cách đề cao khẩu hiệu chống đế quốc và phát huy xã hội chủ nghĩa, thể hiện qua biện pháp lấy lòng Trung Hoa, dù cho phải chịu khuất phục và nhượng bộ đất đai. Sau khi lên nhận chức tổng bí thư, tháng 2 năm 1999, Lê Khả Phiêu sang Trung Hoa và gặp đủ mặt giới lãnh đạo Trung Hoa. Từ đó, mối quan hệ Việt Hoa trở nên ngày càng thân thiết.

Trong năm 1999, nhiều phái đoàn của hai nước lần lượt qua lại, kể cả Phạm Thế Duyệt, Nguyễn Tấn Dũng cho đến những cấp thấp hơn như Hoàng Kỳ, Tư Lệnh Quân Khu III… Ngày 26-9-1999, nhân lễ kỷ niệm 50 năm thành lập Ðảng Cộng Sản Trung Hoa, 2,500 cán bộ từng sống hay du học ở Trung Hoa tập họp ở sân vận động để chúc mừng, trong đó có Hoàng Minh Thảo. Ðầu tháng 12 năm 1999, Thủ Tướng Chu Ðông Cơ của Trung Hoa sang thăm Việt Nam, dự định sẽ tham dự buổi lễ ký kết thỏa hiệp về biên giới trên bộ, nhưng dự thảo thỏa ước có một số chi tiết chưa được thỏa thuận nên phải chờ đến cuối tháng, ngày 30-12- 1999, thỏa ước mới được ngoại trưởng hai nước là Nguyễn Mạnh Cầm và Ðường Gia Truyền ký kết. Thỏa ước này được hoàn tất là nhờ những nhượng bộ của Lê Khả Phiêu, từng hứa hẹn với Giang Trạch Dân là sẽ giải quyết vấn đề biên giới trên bộ xong trước năm 2000 và trên biển trước năm 2001.

Ngoài ra, để thúc đẩy Trung Hoa chịu đứng ra lãnh đạo phục hồi lại phong trào cộng sản, thắt chặt thêm tình đoàn kết xã hội chủ nghĩa, Lê Khả Phiêu đề nghị hai nước hợp tác để mỗi năm, có một buổi hội thảo về ý thức hệ giữa những lý thuyết gia để nghiên cứu lại chủ nghĩa Mác nhằm biện luận cho kinh tế thị trường. Nguyễn Ðức Bình, ủy viên Bộ Chính Trị kiêm giám đốc Trường Ðảng cầm đầu phái đoàn sang Bắc Kinh dự cuộc hội thảo đầu tiên vào tháng 6 năm 2000. Mấy tháng sau, một cuộc hội thảo về lý thuyết khác lại được tổ chức tại Hà Nội. Cầm đầu phái đoàn Trung Hoa là Lý Tiểu Anh, ủy viên Bộ Chính Trị Trung Hoa kiêm giám đốc Học Viện Khoa Học Xã Hội. Sau Nguyễn Ðức Bình là Nguyễn Minh Triết, Lê Minh Hương cũng sang Trung Hoa để học tập kinh nghiệm của Trung Hoa. Ðể trấn an Trung Hoa trước khi Bộ Trưởng Quốc Phòng Cohen, Ngoại Trưởng Albright, và Tổng Thống Clinton sang thăm Việt Nam, trong năm 2000, ngoài Lê Khả Phiêu, Nguyễn Ðức Bình, còn có Nông Ðức Mạnh, Phan Văn Khải, Trần Ðức Lương, Nguyễn Dy Niên và Phạm Văn Trà lần lượt qua thăm Bắc Kinh. Từ đó, hầu như cấp nào (từ trung ương đến tỉnh), ngành nào, thuộc Ðảng hay nhà nước, cũng đều có gắn bó trực tiếp với mọi cấp, mọi ngành của Trung Hoa.

Trung Hoa, vì quyền lợi quốc gia của họ, đã không tha thiết lắm với một liên minh ý thức hệ với Việt Nam, nhưng đã rất bằng lòng với thái độ của Lê Khả Phiêu. Do đó mà quan hệ Việt-Hoa đã thân thiết hơn trước. Sự thân thiết này trở nên dễ dàng hơn sau cái chết của Ðặng Tiểu Bình năm 1997. Do “bài học” năm 1979 đã được không thành công như ý muốn cho nên Ðặng Tiểu Bình vẫn còn cay đắng, đã không nhiệt tình ủng hộ việc kết thân với Việt Nam. Ngoài ra, trong trận chiến Việt-Hoa năm 1979, Cộng Sản Việt Nam còn chế giễu cả đến vóc dáng của ông ta bằng câu nói trong những buổi học tập: “Chính trị Trung Quốc không cao hơn Ðặng Tiểu Bình.” Dù Ðặng Tiểu Bình đã chính thức về hưu năm 1989, nhưng uy tín của ông ta vẫn còn rất lớn. Năm 1992, khi thấy đà đổi mới kinh tế của Trung Hoa bị kiềm hãm bởi Giang Trạch Dân và Lý Bằng, ông đã đi một vòng vùng Hoa Nam để dùng uy tín cá nhân phát động một đợt đổi mới thứ hai cho Trung Hoa.

Chỉ sau khi Ðặng Tiểu Bình chết, Giang Trạch Dân và Lý Bằng mới dám tỏ ra thân thiết hơn với Việt Nam và đã tặng cho Lê Khả Phiêu mười sáu chữ “láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng về tương lai” được Cộng Sản Việt Nam gọi là “mười sáu chữ vàng,” làm căn bản cho quan hệ giữa hai nước. Cái chết của Ðặng Tiểu Bình vào ngày 19-2-1997 cũng là lúc mà Nguyễn Tấn Dũng, lúc đó là ủy viên Ban Thường Vụ Bộ Chính Trị đang thăm viếng Trung Hoa. Dũng được gặp Giang Trạch Dân và cả hai đều hứa sẽ phát triển thêm mối bang giao. Tuy nhiên, điện văn phân ưu của chính phủ Việt Nam về cái chết của Ðặng Tiểu Bình đã không được nồng nhiệt lắm, khác hẳn với điện văn phân ưu gửi đảng Cộng Sản Ai Lao về cái chết của Phomvihane (năm 1992).

Trước chủ trương nghiêng về Trung Hoa của Lê Khả Phiêu, về ngoại giao, phe đổi mới trong chính phủ đã cố gắng quân bình lại bằng cách trao đổi đại sứ với Hoa Kỳ và xúc tiến việc hoàn tất thỏa hiệp thương mại song phương (BTA – bilateral trade agreement). Năm 1997 đã là năm đầu tiên sau 1975 mà Hoa Kỳ có đại sứ ở Việt Nam và lần đầu tiên, Ngoại Trưởng Hoa Kỳ Madelein Albright thăm viếng Hà Nội. Trong cuộc thăm viếng này, Ngoại Trưởng Albright ca ngợi thành quả đổi mới của Việt Nam từ năm 1986, nhưng khuyến cáo Việt Nam nên phát động một phong trào “đổi mới đợt 2.” Có lẽ như để cảnh cáo hành động làm thân với Hoa Kỳ của Việt Nam, ngày 7-3-97, Trung Hoa đem dàn khoan dầu Kantan III và hai tàu thăm dò 206 và 208 đến vùng biển trong vịnh Bắc Việt mà Việt Nam đã xác nhận chủ quyền.

Lần này, sau khi đơn phương phản đối không kết quả, Việt Nam cầu cứu tới những nước ASEAN, gián tiếp cảnh cáo họ là “Nếu Trung Hoa có thể lấn áp Việt Nam, họ có thể làm như thế với các nước khác.” Ðồng thời, trong thời gian đó, ngày 22-3-1997, tư lệnh những lực lượng Hoa Kỳ vùng Thái Bình Dương cũng viếng thăm Hà Nội. Nhờ thế, ngày 1-4-1997, Trung Hoa loan báo sẽ kéo dàn khoan về và ngỏ ý sẽ thương thuyết với Hà Nội. Hai tuần sau, trong một buổi họp giữa những nước ASEAN và Trung Hoa, sau khi các nước ASEAN mạnh mẽ phát biểu những quan tâm của họ, Trung Hoa đồng ý là sau này sẽ thảo luận về những tranh chấp lãnh hải. Dù đạt được thắng lợi ngoại giao, báo chí Việt Nam đã không dám đá động gì đến những tin này, sợ làm chạm tự ái của Trung Hoa. Trong thời gian tranh chấp này, khi Bộ Ngoại Giao Việt Nam đang phản đối, nhiều viên chức cao cấp Việt Nam vẫn tấp nập sang thăm Trung Hoa như Chu Văn Ry, phó ban tổ chức đảng, Lê Minh Hương, Bộ Trưởng Nội Vụ, Tướng Nguyễn Văn Ðộ, Chủ Nhiệm Tổng Cục Tiếp Vận…, coi như không có việc gì xảy ra. Vì thế, vào Tháng Tư năm sau, Trung Hoa tiếp tục lấn tới bằng cách đặt kế hoạch thành lập một trung tâm du lịch tại đảo Ðông Hưng, hòn đảo lớn nhất trên quần đảo Hoàng Sa, Việt Nam lại phản đối bằng miệng nhưng vô hiệu.

Ngoài những suy thoái kinh tế, năm 1997 cũng là năm bắt đầu có những vụ án tham nhũng nổi tiếng lọt ra ngoài ánh sáng. Ðầu tiên là vụ án nhà máy dệt Nam Ðịnh, 14 cán bộ bị tù vì gian lận khoảng 14 triệu Mỹ kim. Sau đó là Nguyễn Trung Trực của hãng Peregrine (được Bùi Thiện Ngộ, và có thể cả Trần Ðức Lương, đỡ đầu) bị phe Võ Văn Kiệt bắt về tội trốn thuế. Tiếp theo đến lượt hãng Tamexco, một hãng xuất nhập cảng của chính phủ. Giám đốc của hãng là Phạm Minh Phước đã biển thủ của hãng trên 50 triệu Mỹ kim. Người này đã từng đánh bài ăn thua hàng trăm ngàn Mỹ kim và tặng cho tình nhân những biệt thự đắt giá. Bản án cũng ghi nhận là có lần Phước cùng 87 cán bộ và nhân viên chính phủ cùng bay ra nước ngoài ăn chơi. Ra tòa, Phạm Minh Phước bị tử hình cùng bốn đồng bọn. Khoảng một năm sau, đến lượt công ty Minh Phụng.

Ðó là một công ty tư nhân lớn, kinh doanh về nhiều mặt, từ dệt vải tơ lụa đến buôn bán địa ốc. Công ty này cùng công ty quốc doanh Epco thành lập 47 công ty ma và thông đồng với một ngân hàng nhà nước để vay tiền sau đó quịt nợ. Vụ án có 77 bị can, số tiền thất thoát lên tới 280 triệu Mỹ kim. Tăng Minh Phụng, giám đốc các công ty Minh Phụng và Liên Khui Thìn, giám đốc công ty Epco, cùng Phạm Nhật Hồng, phó giám đốc nhà băng Kỹ Nghệ và Thương Mại của nhà nước, đều bị tử hình. Những vụ buôn lậu dính líu đến những cơ quan nhà nước tràn lan đến nỗi Cục Trưởng Cục Thuế Quan Phan Văn Ðính cũng bị mất chức cùng với nhiều bị cáo phải ra tòa. Phùng Long Thất, trưởng toán điều tra thuộc ty thuế quan thành phố HCM cùng với Trần Ðoàn, chủ tịch công ty Tân Trường Sanh cũng bị xử bắn về tội thông đồng buôn lậu 900 thùng đồ điện tử và phụ tùng xe hơi. Ngoài tệ nạn tham nhũng kinh tế, cũng trong năm 1997, một số những sĩ quan công an cao cấp như Thượng Tá Công An Vũ Hữu Chính, Ðại Úy Công An Vũ Xuân Trường cùng 30 đồng bọn bị ở tù vì liên quan đến việc buôn bán thuốc phiện lậu từ Ai Lao. Ðến năm 1998, đến lượt Tổng Giám Ðốc Việt Nam Hàng Không Lê Ðức Từ bỏ trốn vì biển thủ trên 2 triệu Mỹ kim. Ngoài ra, tháng 9 năm 1996, khi 5 nhân viên cứu hỏa đến chữa cháy một căn nhà ở Sài Gòn, năm người này đã mở một két sắt và lấy đi 47 lạng vàng. Công an điều tra sự việc và khi 47 lạng vàng được trả lại chủ nhân, lại lòi ra chủ nhân này là Nguyễn Kỳ Cẩm, chủ tịch ủy ban bài trừ tham nhũng cả nước. Vì không thể khai 47 lạng vàng này làm sao có được, Nguyễn Kỳ Cẩm bị mất chức. Tuy nhiên, vụ án nổi tiếng nhất là vụ án Trịnh Vĩnh Bình.

Trịnh Vĩnh Bình là một thương gia người Hòa Lan gốc Việt. Trong những năm đầu của thập niên 1990, Trịnh Vĩnh Bình mang khoảng 4 triệu Mỹ kim về nước làm ăn (mở công ty Tín Thành và Bình Châu bán đồ biển, xây khách sạn, đầu tư địa ốc…) ở Sài Gòn và Vũng Tàu. Bị một người tên Trịnh Hiển Thanh tố cáo, Trịnh Vĩnh Bình bị bắt năm 1998 và bị tịch thu hết tài sản. Sau 18 tháng bị giam, Trịnh Vĩnh Bình ra tòa và bị kết án 11 năm tù (3 năm về tội vi phạm luật nhà đất, 8 năm về tội hối lộ), bị phạt 480 lạng vàng, 6.2 tỷ đồng, ngoài ra còn bị tịch thu toàn bộ gia sản. Tuy nhiên, Trịnh Vĩnh Bình là một người từng hoạt động chính trị tích cực ở Hòa Lan cho nên trong thời gian ông ta bị giam giữ, chính phủ Hòa Lan đã phản ứng mạnh mẽ. Dù cho Phan Văn Khải đã can thiệp, Trịnh Hiển Thanh nhận là đã tố cáo láo và Ðảng Ủy Vũng Tàu cũng công nhận là xử án sai, nhưng khi Bộ Chính Trị họp, Lê Khả Phiêu, Lê Minh Hương, Trần Ðình Hoan và Phạm Thế Duyệt… nhất định tiếp tục đưa Trịnh Vĩnh Bình ra tòa và qui án.

Chuyện rủi ro cho đảng Cộng sản Việt Nam là trong khi giải Trịnh Vĩnh Bình từ Sài Gòợn ra Hà Nội, không hiểu bằng cách nào (có thể do hối lộ hay do được một phe cánh nào đó thả ra), Trịnh Vĩnh Bình đã có thể trốn thoát ở phi trường Tân Sơn Nhất và trở về Hòa Lan. Ông ta đưa đơn kiện chính phủ Việt Nam đã vi phạm điều 9 của thỏa hiệp song phương mà Việt Nam đã ký với Hòa Lan, đòi bồi thường 100 triệu Mỹ kim. Tòa án quốc tế đã nhận đơn kiện và sẽ xét xử. Theo một người thành thạo tin đang sống trong nước, (người này dĩ nhiên phải lấy tên giả và ông ta đã lấy tên giả là Trần Quốc Hoàn, tên của một bộ trưởng công an nổi tiếng nhất nay đã chết), Trịnh Vĩnh Bình bị một Trung Tá Công An Vũng Tàu là Ngô Chí Ðan, một đàn em của Nguyễn Khánh Toàn, Thứ Trưởng Công An, kiếm chuyện để tịch thu tài sản.

Chính Nguyễn Khánh Toàn đã thúc đẩy Trần Ðình Hoan bắt và tiếp tục xử Trịnh Vĩnh Bình về tội gián điệp. Công an đưa ra chứng cớ là Trịnh Vĩnh Bình đã từng gặp mặt Phan Văn Khải, Nguyễn Trọng Minh (chủ tịch ủy ban nhân dân Vũng Tàu) để lôi kéo, mua chuộc. Nguyễn Trọng Minh do đó mà bị mất chức, Phan Văn Khải thì nghe nói liên quan đến gián điệp nên không dám can thiệp tiếp. Ngô Chí Ðan sau này cũng bị mất chức vì liên quan đến một vụ án khác, vụ án “Phương Vicarrent” năm 2003.

.

Cuộc thanh trừng đầy bí ẩn

Do vụ Trịnh Vĩnh Bình, những giới chức lãnh đạo Việt Nam từ Trần Ðức Lương, Phan Văn Khải, Nguyễn Văn An, Nguyễn Di Niên mỗi khi qua thăm Hòa Lan đều bị tiếp đón rất lạnh nhạt.

Vì tệ nạn tham nhũng trong hàng ngũ đảng viên tràn lan, tất cả những lãnh tụ của Ðảng đều lên tiếng đòi bài trừ tham nhũng. Phan Văn Khải ra chỉ thị bắt những viên chức chính phủ phải kê khai những tài sản trị giá trên 50 triệu đồng (khoảng hơn 4,000 Mỹ kim), nhưng lại không bắt họ phải khai nguồn lợi đó từ đâu tới. Ðào Duy Quát, phó ban Tư Tưởng Văn Hóa Ðảng, đòi tăng thêm quyền hạn cho những cơ quan điều tra của Ðảng và chính phủ, còn Tổng Bí Thư Lê Khả Phiêu phát động hai đợt bài trừ tham nhũng và cuối cùng, cả đến Phạm Thế Duyệt, ủy viên Bộ Chính Trị, cũng nói là Ðảng chưa kiểm soát cán bộ nghiêm nhặt lắm. Phạm Thế Duyệt cũng là người trong năm 1998 bị 11 cán bộ và bộ đội hồi hưu tố cáo lợi dụng quyền thế khi làm bí thư thành ủy Hà Nội để chiếm đoạt đất đai nhà cửa của nhân dân một cách trái phép.

Bản tố cáo (được gọi là “tâm thư” gửi tới Trung Ương Ðảng vào tháng 8 năm 1998) chỉ đích danh Phạm Thế Duyệt chiếm những nhà của công đoàn ở phường Trùng Tu, nhà số 64 phố Hàng Bông Nhuộm (sát bên nhà mà bà Nông Thị Xuân trước kia đã ở), nhà số 26 Trại Gang, nhà hai tầng gần hồ Bảy Mẫu. Cùng bị tố với Phạm Thế Duyệt là Ðinh Hạnh, ủy viên Ban Thường Vụ Thành Ủy Hà Nội, phó chủ tịch Ủy Ban Nhân Dân thành phố. Vì lá thư không thể phổ biến công khai, nhưng đã được sao chép và bí mật phổ biến rộng rãi. Những người viết thư đã không ngần ngại ghi rõ tên tuổi, địa chỉ, chẳng hạn như ông Ðoàn Nhân Ðạo, cán bộ 48 tuổi Ðảng, nhà ở 37 Hàng Buồm, bà Ðặng Thị Xuân Tiên, 51 tuổi Ðảng ở số 27 Nghĩa Ðô, Cầu Giấy…

Tuy nhiên, Phạm Thế Duyệt nhờ được hậu thuẫn mạnh mẽ của Ðỗ Mười nên không thấy bị một biện pháp kỷ luật nào mà còn tiếp tục ngồi trong Bộ Chính Trị rồi Mặt Trận Tổ Quốc nhiều năm sau. Ngoài ra, Phạm Thế Duyệt còn được Bộ Chính Trị giao trách nhiệm đả kích và bôi nhọ Tướng Trần Ðộ (kể cả thủ đoạn dùng công an gài bẫy, cho người rình sẵn, hẹn Trần Ðộ tới một nơi rồi cho một cô gái cởi quần áo đến ôm chầm lấy ông cho công an chụp hình). Trần Ðộ cuối cùng bị Ðảng tuyên bố trục xuất khỏi Ðảng vào năm 1999. Vào ngày 15-4-1998, vì bị cán bộ tỉnh Hà Tây hà hiếp không có chỗ kêu oan, ông Nguyễn Văn Kinh chế xăng tự thiêu tại công trường Ba Ðình trước lăng Hồ Chí Minh. Ông được cứu sống và Bộ Ngoại Giao ngày 21-4-98 đổ tội là ông bị bệnh thần kinh.

Ít lâu sau, đến lượt Phó Thủ Tướng Ðặc Trách Xây Dựng Ngô Xuân Lộc bị mất chức phó thủ tướng vì bị nghi là thông đồng với Lê Tất Cương gian lận tiền mua xi măng và lem nhem trong công trình xây dựng công viên Thủy Cung Thăng Long. Sự cách chức và bắt giữ Ngô Xuân Lộc cũng có thể là do tranh chấp giữa phe của Lê Ðức Anh và phe chính phủ của Phan Văn Khải, vì chính trợ lý của Lê Ðức Anh là Nguyễn Bắc Son đã điều động báo chí tấn công Ngô Xuân Lộc. Mấy tháng sau, do Ðỗ Mười can thiệp, Ngô Xuân Lộc được minh oan và lại được Phan Văn Khải chỉ định làm cố vấn đặc biệt về kỹ nghệ, xây dựng và giao thông. Chính Ðỗ Mười cũng phải lên tiếng cải chính là ông ta không hề nhận rượu vang của một tổ hợp công ty Ðại Hàn (nhiều tin đồn nói là Ðỗ Mười nhận hối lộ của tổ hợp này một triệu Mỹ kim). Ngô Xuân Lộc bị bắt là do tố cáo của Tổng Cục 2, và người cho tài liệu để tố cáo là Nguyễn Thái Nguyên, một viên chức trong văn phòng thủ tướng của Phan Văn Khải đã được Tổng Cục 2 chiêu dụ để nằm vùng. Ðể trả đũa lại Tổng Cục 2, phe chính phủ cho Bộ Nội Vụ bắt và kết tội Nguyễn Thái Nguyên là đã cùng Tổng Cục 2 vu cáo Võ Thị Thắng, tổng giám đốc Tổng Cục Du Lịch. Tổng Cục 2 đã từng tố cáo là trong khi ở tù Côn Ðảo, Võ Thị Thắng đã làm chỉ điểm cho công an VNCH. Trong vụ này, ngoài Nguyễn Thái Nguyên, Tổng Cục 2 còn dùng một nhân viên nằm vùng khác trong công ty du lịch là Nguyễn Thị Thanh Hiền.

Giữa năm 1998, cơn khủng hoảng kinh tế Á Châu trong năm 1997 mới ảnh hưởng tới Việt Nam vì phần lớn (60%) hàng xuất cảng của Việt Nam là để bán cho những nước lân bang và những nước đầu tư nhiều nhất ở Việt Nam như Ðại Hàn, Singapore, Thái Lan… đều gặp khó khăn. Hàng xuất cảng bị giảm đi một phần ba. Vốn ngoại quốc đầu tư giảm đi một phần tư so với năm trước. Nhân số thất nghiệp lên tới 20 %. Trong cuộc họp hàng năm của Ngân Hàng Thế Giới và Quĩ Tiền Tệ Quốc Tế, Nguyễn Tấn Dũng đã phải lên tiếng yêu cầu Việt Nam được trợ giúp thêm. Tuy nhiên, vì thành phần bảo thủ chiếm đa số trong Trung Ương Ðảng và Bộ Chính Trị, cho nên ngoài việc tìm cách khuyến khích cách sử dụng vốn trong nước để đầu tư thay thế vốn nước ngoài, những buổi họp của Trung Ương Ðảng năm 1998 chú trọng nhiều hơn vào những vấn đề văn hóa hay ý thức hệ nhằm củng cố quyền lực của Ðảng mà không đưa ra một biện pháp cải thiện kinh tế nào khác. Tiếp theo đó là Hội Nghị Trung Ương Ðảng lần thứ sáu đầu năm 1999 cũng chỉ chú trọng đến việc kiện toàn bộ máy Ðảng hay chính phủ, hoặc đề ra chiến dịch “phê và tự phê” trong ba năm để thanh lọc hàng ngũ.

Ngoài ra, cuối năm 1998, phân Bộ Kinh Tế, thuộc Tổng Cục Kinh Tế và Kỹ Nghệ Quốc Phòng được nâng cấp lên thành một Cục Kinh Tế, đặt dưới sự kiểm soát của Bộ Quốc Phòng. Kể từ đó, hầu như không có một ngành kinh tế nào mà quân đội không nhúng tay vào đầu tư, và hầu như ngành nào của quân đội cũng có riêng một cơ quan làm ăn buôn bán, đáng kể nhất là Cục Quân Báo, lúc sau này được nâng lên thành Tổng Cục 2, có quyền theo dõi, bắt bớ, điều tra những việc không những chỉ liên quan đến quân sự mà còn về chính trị, kinh tế. Vào giữa năm 1998, quân đội Việt Nam bị tổn thất khi một máy bay quân sự Yak-40 do Liên Xô chế tạo bị rớt bên Lào, có 26 người tử nạn, trong đó có các tướng Ðào Trọng Lịch, Tham Mưu Trưởng Quân Ðội, Trần Tất Thành, Tư Lệnh Quân Khu II, Trần Minh Thiết, Tư Lệnh Phó Quân Khu V cùng với các Tướng Phạm Minh Thành, Vũ Xuân Thủy và một số sĩ quan cao cấp Ai Lao (7 năm sau, 2005, một máy bay trực thăng MI 8 cũng do Nga Xô chế tạo đâm vào núi ở Nghệ An, gây thương vong cho tất cả những tướng lãnh chỉ huy Quân Khu IV, trong đó có Trung Tướng Tư Lệnh Trương Ðình Thanh, Tư Lệnh Phó Nguyễn Bá Tuấn, Chủ Nhiệm Chính Trị Lê Hữu Phúc và nhiều sĩ quan cao cấp khác).

Sau khi Ðào Trọng Lịch chết, Lê Văn Dũng, người tỉnh Bến Tre, lúc đó đang là thiếu tướng Tư Lệnh Quân Khu VII ở miền Nam được gọi về Hà Nội thay. Cũng như Phạm Văn Trà, sự lên chức nhanh chóng của Lê Văn Dũng là do sự đỡ đầu và cất nhắc của Lê Khả Phiêu và Lê đức Anh. Những người này đã biết nhau trong thời gian phục vụ ở miền Nam và Căm Pu Chia. Vì lý do đó, cùng với Phạm Văn Trà, Lê Văn Dũng đã hết lòng phục vụ cho Lê Ðức Anh.

Sự hiện diện của một phái đoàn tướng lãnh tư lệnh những quân khu giáp ranh với Ai Lao trên chuyến máy bay bị tử nạn kể trên cho thấy Việt Nam vẫn còn có những hoạt động quân sự ở Ai Lao. Dù Bộ Ngoại Giao Việt Nam cực lực chối bỏ, nguồn tin ngoại giao ở Ai Lao cho biết vào tháng 5 năm 2000, quân Việt Nam đã phải can thiệp để giúp đỡ quân Ai Lao đánh dẹp một số quân khởi loạn người Hmong trong tỉnh Xieng Khoang và trong tháng 6, báo chí Hà Nội đã đăng tin Tướng Nguyễn Khắc Dương, tư lệnh Quân Khu IV đã cùng Ðại Tá Sayphoubanh của Ai Lao đặt viên đá đầu tiên xây dựng một quân y viện tại tỉnh này. Cũng tại Ai Lao, hai tháng sau, một trái bom nhỏ gài sát tường tòa đại sứ Việt Nam được gỡ ngòi nổ. Những nguồn tin ngoại giao tin rằng đó không phải do nhóm chống đối người Hmong mà là do một nhóm thân Trung Hoa trong đảng Cộng Sản Ai Lao, vì dù đã có sự hòa hoãn Việt Hoa, Trung Hoa vẫn luôn tìm cách lấn át ảnh hưởng của Việt Nam tại Ai Lao và Căm Pu Chia. Ði trước Việt Nam, từ năm 1988, Ai Lao đã bắt đầu nối lại quan hệ ngoại giao với Trung Hoa.

Ðể có thể thông thương với Thái Lan, Trung Hoa đã tích cực viện trợ cho Ai Lao, nhất là việc mở mang xa lộ theo hướng Bắc Nam từ Trung Hoa qua Vạn Tượng tới Thái Lan. Theo thống kê, từ 1988 đến 2001, Trung Hoa đã viện trợ cho Ai Lao khoảng 1.7 tỷ Mỹ kim. Khác với các nước Nhật, Tây Âu, Úc, Ngân Hàng Thế Giới đòi Ai Lao phải thi hành nhiều điều kiện như cải tổ hành chánh, chống thất thoát, cải thiện nhân quyền, Trung Hoa khi viện trợ gần như đã không đòi hỏi một điều kiện nào. Xét về ảnh hưởng đối với đảng Cộng Sản Ai Lao, so sánh với Trung Hoa, Việt Nam hiện nay vẫn chiếm uy thế nhưng điều này có thể bị xoay ngược lại trong tương lai.

Cuối năm 1999, nhằm nâng cao phẩm chất quân đội, quốc hội ra một đạo luật đòi hỏi những sĩ quan phải có trình độ đại học. Cấp trung đoàn trưởng trở lên phải có bằng cấp hậu đại học (không nhất thiết là văn hóa mà có thể là chính trị, lý luận… và có thể học “tại chức”). Các chức vụ được đề cử cũng phải theo thứ bậc, chẳng hạn phải là tư lệnh quân đoàn (chỉ huy khoảng 3 sư đoàn) trước khi là tư lệnh phó quân khu (chỉ huy lãnh thổ) để làm tư lệnh quân khu. Số tướng lãnh được giảm xuống giới hạn còn 150 người.

Do sự ưu thắng của phe quân đội và được Lê Khả Phiêu nâng đỡ, tổng cục kinh tế và kỹ nghệ của quân đội tiếp tục bành trướng. Năm 1998, Phạm Văn Trà ra lệnh cho những quân khu và những binh đoàn thiết lập nên những “khu kinh tế quốc phòng” và một năm sau, 13 khu đã được thành lập với số vốn khoảng trên 200 triệu Mỹ kim. Phần lớn những khu kinh tế này nằm dọc theo biên giới của Việt Nam với Trung Hoa, Lào và Căm Pu Chia. Tùy theo hoàn cảnh địa phương, mỗi khu kinh tế kinh doanh những ngành khác nhau. Chẳng hạn binh đoàn 15 đóng tại vùng Tây Nguyên đặt kế hoạch khai khẩn đất hoang, trồng trà, cà phê, nuôi gia súc…, công binh của binh đoàn lập đường sá, xây nhà cửa, trường học. Binh chủng hải quân lập xưởng sửa chữa tàu và để cho một số tàu tuần kiêm nhiệm thêm việc đánh cá.

Khi Trung Hoa bị mất mùa, dù trái luật, tàu hải quân cũng đã chở lúa gạo từ miền đồng bằng Việt Nam sang bán cho Trung Hoa kiếm lời. Không quân có tổ hợp công ty hàng không lo việc chuyên chở hành khách thương mại (kể cả những toán chuyên viên đi tìm người Mỹ mất tích) và huấn luyện phi công. Quân y lập bệnh viện tư. Lực lượng biên phòng phá rừng, xây trường học và cung cấp giáo viên cho dân thiểu số. Học viện Kỹ Thuật Quân Ðội cũng thành lập công ty điện toán Tecapro ký khế ước với hãng dầu Vietsovpetro cùng nhiều công ty ngoại quốc khác. Những tổ hợp công ty của quân đội thành công nhất là công ty Trường Sơn (binh đoàn 12), công ty Thanh An (binh đoàn 11), công ty Tây Nguyên (binh đoàn 15)… Ngay cả tổng cục 2 tình báo cũng có những công ty Vasuco, Toseco buôn bán vũ khí, khách sạn Hoàng Gia, công ty xây dựng Hồng Bàng. Cũng như những công ty quốc doanh, những công ty quân đội nếu bị lỗ lã, sẽ được ngân sách quốc gia tài trợ.

Sang đến năm 1999, kinh tế của Việt Nam tiếp tục xuống dốc. Ðầu tư của ngoại quốc xuống 4 tỷ Mỹ kim năm 1998 tới 1999 xuống còn có 1.48 tỷ. Các công ty ngoại quốc ở Việt Nam phần lớn bị lỗ. Nhưng lỗ nhiều nhất là những công ty quốc doanh. Khoảng hơn 2,000 trong hơn 6,000 công ty quốc doanh bị lỗ và dĩ nhiên chính phủ phải bù đắp. Ngân hàng thế giới và quĩ tiền tệ quốc tế ngưng không cho vay trừ khi Việt Nam áp dụng “một phương cách đổi mới toàn diện hơn,” trong đó có 3 mục tiêu:

1. Hoặc tư nhân hóa, hoặc cải tổ lại những công ty quốc doanh.

2. Cải tổ lại hệ thống ngân hàng , kể cả 4 ngân hàng chính của nhà nước.

3. Cải tổ lại ngành thương nghiệp, mở rộng thị trường.

Tuy nhiên, khi phe đổi mới đề nghị với Trung Ương Ðảng những biện pháp kể trên, nhóm bảo thủ lại thấy đó chỉ là những âm mưu của tư bản nhằm bóc lột và thao túng kinh tế những nước nghèo. Theo họ, tư nhân hóa những công ty quốc doanh chỉ là một phương cách để giảm thiểu uy quyền của đảng và nhà nước, phá hoại định hướng xã hội chủ nghĩa, còn mở rộng thị trường để những công ty ngoại quốc cạnh tranh với giá thành rẻ hơn sẽ làm suy sụp những công ty quốc doanh, tạo ra nạn thất nghiệp và xáo trộn an ninh. Vì thế, khi dự thảo thỏa hiệp thương mại song phương (BTA-bilateral trade agreement) Việt Nam-Hoa Kỳ được hoàn tất, dù cho Lê Khả Phiêu ủng hộ thỏa ước vì nó giúp thuế khóa hàng hóa Việt Nam vào Hoa Kỳ giảm từ 40% xuống còn 3%, và tính ra Việt Nam sẽ được lợi khoảng 800 triệu Mỹ kim trong năm đầu tiên, nhưng việc ký kết đã bị phe bảo thủ trì hoãn lại. Bản dự thảo hiệp ước được thương thuyết từ năm 1997 và với sự đồng ý của Lê Khả Phiêu, việc ký kết được dự trù khi Phan Văn Khải sang Tân Tây Lan họp hội nghị kinh tế các nước ven Thái Bình Dương (APEC) và gặp Clinton ở đó vào tháng 9 năm 1999.

Vì khi ký thỏa hiệp BTA, một số những công ty quốc doanh, làm ăn thua lỗ, sẽ không còn có thể được trợ cấp, những đảng viên cao cấp có liên quan với những xí nghiệp quốc doanh đã vận động với Ðỗ Mười can thiệp để Lê Khả Phiêu trì hoãn lại. Ngoài ra, một lý do khác là lúc đó Trung Hoa cũng đang nghiên cứu ký một thỏa hiệp tương tự với Hoa Kỳ. Cảm thấy không thể đi trước nước đàn anh, Lê Khả Phiêu đã chỉ thị cho Bộ Ngoại Giao phải tuyên bố là Việt Nam vẫn chưa sẵn sàng. Một tháng sau, khi Hội Nghị Trung Ương Ðảng lần thứ tám họp để nghiên cứu lại, hội nghị đã kết luận là bản dự thảo này “không quân bình, cần nghiên cứu thêm.” Tháng sau, từ ngày 8 đến 15-10-1999, do lệnh của Ðỗ Mười và Lê Khả Phiêu, Phạm Thế Duyệt, một ủy viên Bộ Chính Trị, lên đường sang Trung Hoa tham khảo ý kiến về việc ký kết thỏa ước. Dù cho Trung Hoa đã khuyến cáo là Việt Nam nên thận trọng khi ký kết với Hoa Kỳ nhưng chỉ vài tuần lễ ngay sau đó, các cấp lãnh đạo Việt Nam đã rất ngỡ ngàng khi Trung Hoa nhanh chóng ký kết một thỏa ước tương tự với Hoa Kỳ, mở đường cho Trung Hoa gia nhập vào cộng đồng thương mại thế giới WTO vào đầu năm 2001, trong khi sự trì hoãn của Việt Nam một phần do khuyến cáo của Trung Hoa đã làm chậm đi việc gia nhập tổ chức này cho tới tháng 11 năm 2006. Một số công ty ngoại quốc dự định đầu tư ở Việt Nam thấy Trung Hoa đã ký BTA với Hoa Kỳ đã bỏ sang Trung Hoa làm ăn. Tác giả Templer chuyên về Việt Nam nhận xét: “Không phải Trung Hoa bảo họ không ký. Họ chỉ không muốn qua mặt Trung Hoa. Họ nghĩ là tốt hơn nên để Trung Hoa được gia nhập WTO trước.”

Thời gian chờ đợi ký kết thỏa ước càng kéo dài càng bất lợi cho Việt Nam. Nhưng chỉ sau khi nước đàn anh và cộng sản gương mẫu là Trung Hoa đã ký, những phần tử bảo thủ mới phải chấp nhận thực tế là họ cần có nguồn vốn đầu tư ngoại quốc, cần phát triển xuất khẩu mới có hy vọng đạt được mục tiêu biến Việt Nam thành một nước công nghiệp và hiện đại vào năm 2020. Tám tháng sau, Hội Nghị Trung Ương Ðảng lần thứ mười mới công nhận là Việt Nam không còn cách nào khác là hòa nhập vào kinh tế trong vùng và kinh tế thế giới, nhất là với Hoa Kỳ. Vũ Khoan được cử sang Hoa Thịnh Ðốn để ký thỏa ước thương mại song phương BTA với Hoa Kỳ vào ngày 13-7-2000, nhưng việc gia nhập vào Tổ Chức Thương Mại Thế Giới WTO của Việt Nam cũng đã phải chờ đến cuối năm 2006 mới xong, sau Trung Hoa đến hơn năm năm. Sau hiệp ước song phương, sự cải thiện bang giao giữa hai nước Việt Mỹ được thể hiện qua việc 3 chiếc phi cơ C130 của Hoa Kỳ đáp xuống phi trường Tân sơn Nhất vào tháng 10 năm 2000 sau 25 năm vắng bóng để chờ đồ cứu trợ cho những nạn nhân của một cơn bão lớn vừa gây chết chóc và tàn phá tại những tỉnh duyên hải miền Trung và miền Nam.

Sự chần chừ thay đổi ý kiến của Lê Khả Phiêu đã làm nản lòng phe đổi mới, trong khi mấy tháng sau Lê Khả Phiêu vẫn lại chấp thuận cho ký kết thỏa ước cũng đã làm cho phe bảo thủ bất bình. Ðiều này xảy ra là do thái độ của Lê Khả Phiêu đối với Trung Hoa. Mới đầu Lê Khả Phiêu thay đổi ý kiến không dám ký thỏa ước với Hoa Kỳ là vì cùng với Ðỗ Mười, Lê Khả Phiêu sợ làm mất lòng Trung Hoa. Lúc sau, sau khi Trung Hoa đã ký thì Lê Khả Phiêu mới mạnh dạn hùa theo phe đổi mới. Ðó là một trong những lý do khiến Lê Khả Phiêu đã bị mất chức trong khi chỉ được làm tổng bí thư mới hơn ba năm.

Trong khi khả năng lãnh đạo của Lê Khả Phiêu, dù xuất thân là một tướng lãnh, được coi là yếu kém, ưu điểm duy nhất của Phiêu là cuộc sống bình dị và gia đình không bị tai tiếng. Tiếng xấu duy nhất của đời tư Lê Khả Phiêu là có tin đồn Lê Khả Phiêu bị trúng phải mỹ nhân kế của Trung Hoa, khiến cho thời gian Lê Khả Phiêu cầm quyền là thời gian Việt Nam nhượng bộ Trung Hoa nhiều nhất, kể cả phải nhượng bộ đất đai trong tranh chấp về biên giới. Tuy tin đồn không được kiểm chứng, nhưng thái độ qui phục Trung Hoa của Lê Khả Phiêu đã được thể hiện rõ ràng. Sau khi Lê Khả Phiêu, với tư cách tổng bí thư, sang thăm Trung Hoa vào tháng 2 năm 1999, phái đoàn thương thuyết của Việt Nam đã bị áp lực để hoàn tất thỏa ước về biên giới Việt Hoa trên đất liền trước năm 2000 và thỏa ước này đã được ký kết tại Hà Nội vào cuối năm 1999 giữa Nguyễn Mạnh Cầm và Ðường Gia Truyền (Tang Jiaxuan). Thỏa ước là một thắng lợi ngoại giao lớn cho Trung Hoa, vì ngoài việc được Việt Nam nhượng bộ về đất đai, trong tháng trước, trong Hội Nghị Thượng Ðỉnh Các Quốc Gia ASEAN ở Manila, Trung Hoa đã từ chối không chịu ký vào bản đề nghị “qui tắc hành xử” (code of conduct) trong những tranh chấp biên giới dù trên bộ hay trên biển. Ðạt được thỏa hiệp với Việt Nam, Trung Hoa đã chứng tỏ là họ có thể giải quyết riêng với từng quốc gia theo cách “chia để trị” của họ. Cũng theo cách này, do chủ trương của Lê Khả Phiêu, Việt Nam cũng sẽ đi lẻ với Trung Hoa mà giải quyết ranh giới trên biển vào năm sau. Trong chuyến đi thăm Trung Hoa lần này, ngoài việc gặp Giang Trạch Dân, Tổng Bí Thư, Lý Bằng, Chủ Tịch Quốc Hội, Hồ Cẩm Ðào, Phó Chủ Tịch Nhà nước Trung Hoa, Lê Khả Phiêu còn ghé thăm Thành Ðô, thủ phủ tỉnh Tứ Xuyên, nơi Ðỗ Mười và Phạm Văn Ðồng năm 1990 đã qua tạ lỗi, để tỏ ra coi trọng tình hữu nghị Hoa Việt và biết ơn thiện ý của Trung Hoa đã chịu để cho Việt Nam được tái lập bang giao.

Vì thế cô về chính trị, không có kinh nghiệm lẫn kiến thức về kinh tế, và lên cầm quyền trong thời gian mà tệ nạn tham nhũng đang lan tràn trong mọi cấp của đảng viên, việc đầu tiên của Lê Khả Phiêu là mở hai đợt thanh lọc hàng ngũ Ðảng và bài trừ tham nhũng. Chỉ trong tháng 7, 1999, Ðảng trục xuất 200 đảng viên, thi hành kỷ luật 1,550 đảng viên khác, hàng ngàn viên chức khác bị sa thải. Tháng 10 năm 1999, Tổng Giám Ðốc Thuế Quan Phan Văn Ðính bị mất chức vì quá nhiều cán bộ hải quan ăn hối lộ và buôn lậu. Người thay thế là Nguyễn Ðức Kiên, tỉnh ủy tỉnh Hải Dương. Năm 2001, có hai tỉnh ủy viên bị loại, nhưng Việt Nam vẫn được thế giới xếp vào một trong những nước tham nhũng nhất. Tuy không tham nhũng cá nhân, nhưng vì không có hậu thuẫn trong một Bộ Chính Trị luôn luôn có phe phái, Lê Khả Phiêu phải ưu tiên nâng đỡ những đảng viên cùng quê hương là tỉnh Thanh Hóa. Chẳng hạn khi Nguyễn Mạnh Cầm về hưu trong năm 2000, dù Vũ Khoan có khả năng và uy tín hơn, nhưng Lê Khả Phiêu lại áp lực để Nguyễn Dy Niên, người Thanh Hóa, lên thay. Vũ Khoan là người đầu óc cởi mở và chắc chắn sẽ không nhường nhịn Trung Hoa quá đáng như Lê Khả Phiêu. Ông ta đã từng viết trong một báo cáo về sử dụng ngân sách: .”..nhiều thứ biết là chưa đúng, nhưng rất nhiều cán bộ lại biện lý lẽ rằng, Trung Quốc đã làm qua. Nhưng chúng ta phải hiểu rằng cái gì đúng ở Trung Quốc không chắc đã đúng ở Việt Nam. Thành quả của Trung Quốc là lớn, nhưng không thể mù quáng học tập theo, nếu cứ như vậy chúng ta sẽ lại mắc bệnh giáo điều, căn bệnh của những năm 80…”

Tân Bộ Trưởng Ngoại Giao Nguyễn Dy Niên sinh năm 1935, tốt nghiệp cử nhân văn chương tại trường Banatas Hindu, Ấn Ðộ. Chuyến công du đầu tiên của Nguyễn Dy Niên khi mới lên nhận chức ngoại trưởng là sang thăm Trung Hoa ngay vào tháng 2 năm 2000. Ngoài Nguyễn Dy Niên, Lê Khả Phiêu cũng đã vận động chức vụ Bộ Trưởng Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn và Thứ Trưởng Nội Vụ cho những người cùng quê ở Thanh Hóa. Trong thời gian này, do áp lực của những bí thư tỉnh ủy miền Trung cùng với sự hỗ trợ của Lê Khả Phiêu và Trần Ðức Lương, chính phủ quyết định tiến hành xây dựng xưởng lọc dầu tại Dung Quất, Quảng Ngãi.

Xưởng lọc dầu Dung Quất là điển hình sự lãng phí của một nền kinh tế chỉ huy và duy ý chí. Ðịa điểm Dung Quất ở xa giếng dầu Bạch Hổ cả ngàn cây số, tất cả những chuyên gia đều nhận thấy về phương diện kinh tế không có lợi. Kể từ 1995 đến 2002, dù chính phủ đã đưa ra cho nhiều điều kiện thuận lợi, những tổ hợp công ty ngoại quốc như Total (Pháp), Conoco (Hoa Kỳ), LG (Ðại Hàn), và những công ty khác của Mã Lai, Ðài Loan đều lần lượt bỏ dở. Sau cùng là công ty Zaroubejneft của Liên Xô cũng phải chịu thua nửa chừng vào cuối năm 2002. Vì công trình được dự trù một cách lạc quan là sẽ hoàn thành vào năm 2001, tỉnh Quảng Ngãi đã gửi hàng ngàn trẻ em con cái nông dân đi Vũng Tàu học căn bản về kỹ nghệ dầu khí và ký giao kèo với trường Ðại Học Ðịa Chất để đào tạo cấp tốc hàng trăm kỹ sư dầu khí, dự trù về làm cho xưởng lọc dầu. Tất cả những trẻ em và sinh viên ra trường trở về đều thất nghiệp hoặc phải đi làm những công việc lao động khác. Nhà máy nước xây dựng lên dự trù cung ứng cho xưởng lọc dầu mỗi tháng 15 ngàn thước khối cả năm 2001 chỉ bán được có 16 ngàn thước khối. Vì Bộ Chính Trị không thể mất mặt bỏ ngang, tới tháng 2 năm 2003, không còn ai chịu đầu tư, chính phủ Việt Nam phải đứng ra tự đảm nhận. Số vốn mới đầu năm 1996 dự trù 1.3 tỷ Mỹ kim nay đã tăng lên 3 tỷ. Tất cả những phần kỹ thuật như thiết kế, trang bị, điện toán điều hành đều phải mướn những công ty ngoại quốc. Công trình dự trù hoàn tất năm 2002 đã bị triển hạn dần cho tới năm 2008 và sau khi hoàn tất, hy vọng sẽ thỏa mãn 40% nhu cầu dầu hỏa trong nước.

Do tình trạng không thống nhất giữa Ðảng và chính phủ, từ năm 1997, Việt Nam đã không thể có một biện pháp mạnh mẽ nào nhằm cải thiện kinh tế. Trong mấy tháng đầu năm 1998, có khoảng 10% công ty ngoại quốc ở Việt Nam đóng cửa, kể cả 4 nhà băng Ðại Hàn. Mặt khác, số lượng lúa gạo và cà phê xuất cảng cũng bị giảm sút. Tiền nước ngoài đem vào đầu tư không bằng một nửa năm trước. Tệ hơn nữa, cuối tháng 11 năm 1997, Thủ Tướng Nga Chernomyrdyn ghé thăm Việt Nam, mục đích chính là để đòi nợ. Một điểm gai góc giữa hai nước là Việt Nam vay bằng tiền roubles của Nga, nhưng đồng tiền này đã xuống giá quá nhanh nên khi Liên Xô đòi 1.7 tỷ Mỹ kim, Việt Nam cho là quá cao. Nhờ Liên Xô được coi như một “người bạn truyền thống,” hai bên sau này cũng đạt được một thỏa ước, theo đó Việt Nam sẽ trả góp trong 23 năm (một phần nhỏ trả bằng tiền mặt, còn lại trả bằng hàng hóa hay dịch vụ).

Hội Nghị Trung Ương Ðảng kỳ sáu vào Tháng Mười năm 1998 tuy công nhận sự phát triển kinh tế đã chậm lại nhưng lại chỉ kêu gọi phát triển nông nghiệp để đối phó với tình thế, ngoài ra mục tiêu chính của hội nghị vẫn là làm sao kiện toàn bộ máy Ðảng, thanh lọc hàng ngũ đảng viên. Hội nghị cũng không bầu người nào thay thế ủy viên Bộ Chính Trị Ðoàn Khuê vừa mới chết. Dưới ảnh hưởng của phe bảo thủ, hiệp ước thương mại song phương với Hoa Kỳ bị ngăn chận. Bất mãn trước sự thụ động của trung ương, trong năm 2000, thành phố Hồ Chí Minh phải đơn phương tìm biện pháp để giữ chân những nhà đầu tư ngoại quốc. Họ tự động giản dị hóa thủ tục, cho phép những nhà đầu tư đã được thành phố chấp thuận có thể tiến hành công việc làm ăn nếu sau hai tuần vẫn chưa được sự phê chuẩn từ Hà Nội. Những nhà đầu tư nhỏ có thể bắt đầu kinh doanh không cần sự chấp thuận của chính phủ trung ương, và các viên chức của thành phố HCM sẽ họp một tháng hai lần để giải quyết nhanh chóng khó khăn mà những nhà đầu tư ngoại quốc gặp phải.

Tuy nhiên, vì thấy sự phát triển kinh tế mỗi ngày một suy kém và thấy Trung Hoa đã nhanh chân ký trước, Hội Nghị Trung Ương Ðảng lần thứ 10 (khóa VIII) họp vào tháng 7, 2000 cuối cùng cũng bỏ phiếu chấp thuận thỏa ước song phương với Hoa Kỳ và cho phép mở thị trường chứng khoán tại thành phố Hồ Chí Minh. Người được cử sang Hoa Kỳ ký thỏa ước thương mại song phương là Vũ Khoan, vừa được cử sang làm Bộ Trưởng Bộ Thương Mại Thay Trương Ðình Tuyển. Cũng vào dịp đầu năm 2000, Bí Thư Thành Ủy thành phố Hồ Chí Minh là Trương Tấn Sang được điều về Hà Nội làm Trưởng Ban Kinh Tế Trung Ương Ðảng. Người thay Trương Tấn Sang là Nguyễn Minh Triết. Cựu Trưởng Ban Kinh Tế Của Ðảng là Phan Diễn đổi về làm bí thư thành ủy Ðà Nẵng. Không hiểu vì lý do gì, hai ủy viên Lê Xuân Tùng, Bí Thư Thành Ủy Hà Nội và Nguyễn Phú Trọng, Trưởng Ban Tư Tưởng Văn Hóa cũng đổi vị trí cho nhau.

Việc ký kết thỏa ước thương mại song phương đã mở đường cho Tổng Thống Hoa Kỳ Clinton ghé thăm Việt Nam vào tháng 11 năm 2000. Trong phái đoàn, ngoài Bộ Trưởng Thương Mại Minetta còn có Thượng Nghị Sĩ Kerry, Dân Biểu Loretta Sanchez (khu vực quận Cam-Orange County, California). Tuy nhiên, không phải ai cũng hoan nghênh cuộc thăm viếng đó. Trước khi Clinton tới, ngày 27-10-2000, những phần tử bảo thủ trong Bộ Chính Trị gửi một thông tư mật cho đảng viên, do Phạm Thế Duyệt ký tên, chỉ thị cho các cấp không được tỏ ra quá nồng nhiệt khi tiếp đón Clinton. Thông tư viết: “Chúng ta phải luôn nhớ rằng bản chất của Mỹ là chống lại Chủ Nghĩa Cộng Sản. Chúng vẫn chưa từ bỏ mưu toan diễn biến hòa bình…” Chuyến đi thăm của Clinton chỉ được thông báo trước 2 ngày với vài hàng ngắn ngủi: “Tổng Thống Hoa Kỳ W.J.Clinton và phu nhân sẽ chính thức viếng thăm Việt Nam từ 16 đến 19-11-2000. Chuyến viếng thăm là do lời mời của Chủ Tịch Trần Ðức Lương.” Chỉ có báo Thanh Niên là thêm một vài chi tiết.

Báo chí được chỉ thị là nếu có đăng hình Clinton, hình đó phải nhỏ hơn hình của Giang Trạch Dân mới đi thăm Việt Nam trước đó. Nguyễn Dy Niên thấy thái độ của Bộ Chính Trị cũng phải hủy bỏ cuộc họp báo trong ngày mà Clinton tới Hà Nội. Dù Trần Ðức Lương, Phan Văn Khải đã tiếp xúc với Clinton một cách ngoại giao và thân thiện, nhưng khi Clinton gặp Lê Khả Phiêu thì đã bị Lê Khả Phiêu lên tiếng thuyết giảng cho Clinton một bài học dài về lịch sử Việt Nam, đồng thời cũng lên án chủ nghĩa đế quốc và khoe là chiến tranh Việt Nam đã có một tác dụng tốt cho phong trào xã hội chủ nghĩa. Clinton, một người tránh nhập ngũ, sợ mang tiếng cũng đã cứng cỏi nói lại rằng việc Hoa Kỳ tham chiến ở Việt Nam là để bênh vực quyền dân tộc tự quyết. Thái độ thiếu ngoại giao của Lê Khả Phiêu sau đó đã bị phê bình trong nội bộ Ðảng. Một điều đáng chú ý là trong dịp này, tại Mạc Tư Khoa, Liên Xô cũng thông báo là Tổng Thống Putin sẽ viếng thăm Ðại Hàn và Việt Nam trong đầu năm tới.

Có lẽ trong thâm tâm Lê Khả Phiêu, mục đích chính của việc lên lớp Clinton không trực tiếp liên hệ với vấn đề quan hệ ngoại giao hay kinh tế với Hoa Kỳ mà thực ra là để trấn an Trung Hoa và lấy lòng những thành phần bảo thủ. Bản báo cáo về cuộc nói chuyện riêng với Clinton được công bố ngay trên đài truyền hình hai lần, sau đó được chính thức phân phát cho báo chí. Tân Hoa Xã của Trung Hoa cũng phổ biến ngay lập trường cứng rắn với Hoa Kỳ của Lê Khả Phiêu. Ngoài ra, có dịp lên lớp tổng thống một nước đang đứng đầu các nước tư bản cũng là dịp để giải tỏa những dồn nén. Vì lý lịch từng làm cai phu cho một chủ đồn điền Pháp, Lê Khả Phiêu muốn sang Pháp để được tiếp đón như một quốc khách, vì thế nên đã nhờ đảng Cộng sản Pháp nói với Tổng Thống Chirac mời Lê Khả Phiêu. Giữa năm 2000, Lê Khả Phiêu dẫn một phái đoàn gần 199 người sang viếng thăm nước Pháp.

Cả tổng thống và thủ tướng Pháp đều né tránh tiếp đón Lê Khả Phiêu, vì trên danh nghĩa chính thức, Lê Khả Phiêu chỉ là tổng bí thư một đảng chính trị. Cả Bộ Trưởng Ngoại Giao cũng lấy cớ bận việc. Cuối cùng, người thay mặt chính phủ Pháp ra phi trường đón tiếp là Bộ Trưởng Giao Thông, lý do ông này là đảng viên Cộng Sản. Báo chí và truyền hình không hề đả động đến chuyến viếng thăm. Khi rời nước Pháp, chính phủ Pháp cũng không tổ chức tiệc tùng đưa tiễn theo nghi lễ quốc khách. Ðược cử lên làm một người có quyền lực cao nhất một nước, nhưng khi ra nước ngoài bị coi thường khiến cho Lê Khả Phiêu sau khi về nước, chẳng những đã mưu định giữ ghế Tổng Bí Thư thêm một nhiệm kỳ mà còn tìm cách để kiêm nhiệm luôn chức Chủ Tịch Nhà Nước giống như Giang Trạch Dân bên Trung Hoa. Quốc gia duy nhất đón tiếp Lê Khả Phiêu một cách trọng thể là Cuba, khi Phiêu sang viếng thăm vào ngày 7-9-1999. Ðền bù lại, Cuba đã được Lê Khả Phiêu tặng cho 3,000 tấn gạo.

Cùng đi với Clinton sang thăm Việt Nam, ngoài vợ con ông cùng những phụ tá, còn có trên 30 đại diện của những công ty lớn như Boeing, Nike, Genetral Motors, Lucent, Motorola… đến để tham quan khả năng kinh tế. Clinton được mời đến nói chuyện tại trường đại học Hà Nội và buổi nói chuyện được trực tiếp truyền hình. Trái với ý muốn của Lê Khả Phiêu, buổi nói chuyện cũng như sự tiếp đón của dân chúng đối với Clinton đã diễn ra khá nồng nhiệt và đối với nhà cầm quyền Việt Nam, chuyến đi đó đã gây ra nhiều phiền phức. Họ đã phải bắt giữ ông Hà Hải, tổng thư ký Giáo Hội Phật Giáo Hòa Hảo ngày 19-11-2000 khi ông này đang định từ Long Xuyên lên Sài Gòn gặp Clinton và trong khi Clinton đang ở Hà Nội thì phi công Lý Tống đã dùng một máy bay từ Thái Lan bay về Sài Gòn rải truyền đơn chống Cộng rồi an toàn trở lại Thái Lan. Lý Tống sau 1975 từng vượt ngục tù Cộng Sản đi bộ sang Tân Gia Ba (12). Năm 1992, ông trở về Việt Nam ép một phi công hàng không Việt Nam bay quanh vùng Sài Gòn để thả truyền đơn.

Lần đó ông bị bắt sau khi nhảy dù xuống đất nhưng được chính phủ Hoa Kỳ can thiệp để được thả 6 năm sau. Trở về Mỹ, năm 2000, ông lái một phi cơ nhỏ sang Cuba rải truyền đơn chống Castro ở Havana rồi an toàn trở về Mỹ. Do sơ hở này, phòng không của Việt Nam đã trở nên “quá cảnh giác” cho nên ngay ngày hôm sau, đã bắn nhầm vào một phi cơ dân sự. Sau vụ trở lại Việt Nam lần thứ hai này của Lý Tống, Phạm Văn Trà, Lê Văn Dũng và các cấp chỉ huy không quân và phòng không đều bị khiển trách vì không chu toàn được nhiệm vụ. Khi Lý Tống bay trở về Thái Lan, ông đã bị nhà cầm quyền Thái Lan bắt và bỏ tù nhiều năm.

Sau chuyến đi của Clinton, Việt Nam lại đón tiếp Tổng Thống Putin của Nga Xô. Bang giao với Liên Xô được cải thiện rất nhiều từ khi Putin lên cầm quyền và nhất là sau khi Phan Văn Khải sang Nga ký thỏa ước trả món nợ 1.7 tỷ Mỹ kim. Putin đến thăm Việt Nam từ Ðại Hàn và khi gặp Trần Ðức Lương, hai bên tuyên bố là sẽ phát triển một “hợp tác chiến lược,” theo đó, ngoài việc Nga Sô hợp tác với Việt Nam thăm dò và khai thác dầu hỏa, còn giúp xây dựng cho Việt Nam nhà máy điện nguyên tử đầu tiên trị giá khoảng 3.5 tỷ Mỹ kim và một nhà máy thủy điện tại Sơn La, tổn phí khoảng 2.6 tỷ. Việc xây dựng nhà máy thủy điện Sơn La đã gây ra một số chỉ trích, vì Sơn La là vùng có thể có động đất và vì sẽ bắt buộc phải di cư 100 ngàn người đi nơi khác. Tin đồn về việc di cư này mấy năm trước đã là một trong những nguyên nhân gây ra biến loạn ở vùng Tây Nguyên. Ngoài ra, Việt Nam cũng nhờ Nga Xô phóng giúp một vệ tinh truyền tin.

Một vấn đề chính trong chuyến viếng thăm của Putin là vấn đề Việt Nam sẽ tiếp tục mua võ khí. Từ 1990, việc sản xuất và bán võ khí đã là một nguồn xuất cảng lớn của Nga Xô (báo chí Ấn Ðộ đã gọi tên Putin là chữ viết tắt của Planes-Uranium-Tanks-Infrastructures-Nuclears). Putin đã khuyến khích Việt Nam mua thêm những chiến đấu cơ Sukhoi 27 (tầm hoạt động 3680 cây số), oanh tạc cơ Su-30MK và có thể cả Mig 29. Hải quân Việt Nam cũng được tân trang. Việt Nam đã mua những tàu phóng hỏa tiễn và hệ thống phóng phi đạn chống chiến hạm Mosquito, với những phi đạn có thể bay thấp và bắn trúng mục tiêu trong vòng 120 cây số. Sau chuyến đi của Putin, Nga Xô bán được cho Việt Nam hai giàn hỏa tiễn phòng không tối tân S300 PMU 1, có thể bắn trúng phi cơ cách xa 150km. Nga Sô đã bán cho Trung Hoa loại võ khí này và còn dự định bán cho Trung Hoa loại S300 PMU 2, tối tân hơn. Do ám ảnh áp lực của Trung Hoa, nhiều khi Việt Nam đã phải lén lút mua võ khí một cách ngoài qui ước.

Chẳng hạn, tháng 10 năm 2002, khi nhân viên hải quan tỉnh St Petersburg khám xét một thùng hàng lớn đưa về Việt Nam, ngoài thùng ghi là phụ tùng xe hơi, nhưng bên trong lại thấy có một số hỏa tiễn phòng không tối tân nhất của Nga Xô. Ðể tiết kiệm ngân sách, trong chuyến đi Việt Nam, Putin cũng cho biết là sẽ trả lại hải cảng Cam Ranh vào năm 2002, trước thời hạn giao kèo 2 năm. Tuy Việt Nam rất muốn hải cảng được Hoa Kỳ thuê lại, nhưng vì sợ mất lòng Trung Hoa, Việt Nam mời Trung Hoa là nước đầu tiên để cho chiến hạm ghé thăm Cam Ranh. Hiểu thâm ý của Việt Nam, Trung Hoa cương quyết từ chối. Việt Nam sau đó tuyên bố là sẽ biến Cam Ranh thành một thương cảng. Sau khi Putin về nước, Nông Ðức Mạnh và Trần Ðức Lương cũng đã lần lượt sang Nga đáp lễ.

Cùng thời gian chuyến viếng thăm của Clinton và Putin là những cuộc viếng thăm của Bộ Trưởng Quốc Phòng Fernandes, Ngoại Trưởng Singh và Thủ Tướng Vajpayee của Ấn Ðộ. Ðối với Việt Nam, Ấn Ðộ là một nước quan trọng vì đông dân, có thể chế tạo võ khí khá tối tân và nhất là thật tâm muốn bang giao chặt chẽ với Việt Nam.

Tuy nhiên, sau chuyến đi của Clinton, càng gần đến ngày Ðại Hội Ðảng lần thứ IX, cuộc đấu tranh nội bộ của đảng Cộng Sản Việt Nam càng trở nên gay gắt và tiến trình cải thiện bang giao với Hoa Kỳ bị ngưng trệ. Do áp lực của phe bảo thủ, chuyến viếng thăm của Ðô Ðốc Blair, tư lệnh các lực lượng Hoa Kỳ tại Thái Bình Dương, dự trù vào ngày 15-1-01 bất thình lình bị Việt Nam hủy bỏ và không cho biết lý do. Phải chờ đến một năm sau (sau khi Việt Nam đã để cho chiến hạm Yulin của Trung Hoa ghé cảng Sài Gòn ngày 22-11-2001), ngày 2-2-02, Ðô Ðốc Blair mới chính thức đến thăm Việt Nam, và đã gặp Nguyễn Tấn Dũng, Phạm Văn Trà, Nguyễn Dy Niên. Trong những tiếp xúc, Ðô Ðốc Blair ngỏ ý Hoa Kỳ không muốn thuê lại hải cảng này nhưng mong muốn là tàu bè của tất cả các nước có thể ghé lại khi cần thiết, nhưng sợ làm phật lòng Trung Hoa, Việt Nam đã từ chối.

Cũng trong Hội Nghị Trung Ương Ðảng lần thứ 10 (khóa VIII) vào tháng 7 năm 2000, những điểm căn bản cho bản báo cáo chính trị của Ðại Hội Ðảng lần thứ IX sẽ được tổ chức vào Tháng Tư năm 2001 được Nguyễn Phú Trọng đưa ra bàn thảo. Nội dung dự thảo báo cáo nói chung vẫn là kêu gọi “phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa.” Phương châm này chỉ giản dị là sẽ cố gắng để ưu tiên phát triển cho kinh tế quốc doanh vượt trội hơn kinh tế tư nhân. Hội Nghị Trung Ương cũng đánh giá vai trò của Ban Thường Vụ Bộ Chính Trị để tìm cách thay đổi. Tuy công khai tuyên bố theo đuổi đường lối ngoại giao “đa phương,” bản báo cáo chính trị chỉ nhấn mạnh đến sự cải thiện quan hệ với “những nước láng giềng, xã hội chủ nghĩa và bạn bè tuyền thống” là Ai Lao, Căm Pu Chia, Trung Hoa và Liên Xô mà không nhắc nhở gì đến Hoa Kỳ, Tây Âu hay các nước ASEAN.

Tuy là một thành viên của những nước ASEAN, Việt Nam đặc biệt quan hệ thân thiết với Ai Lao và Miến Ðiện. Ai Lao là do bản chất thụ động cố hữu vẫn phụ thuộc vào Việt Nam trên nhiều lãnh vực, còn Miến Ðiện, do nền độc tài quân phiệt nên bị cô lập đối với quốc tế nên rất thân cận và được cảm tình với những lãnh tụ Cộng sản Việt Nam. Riêng đối với Căm Pu Chia, do mối hận thù lịch sử và thái độ của cán bộ Việt Nam trong thời gian chiếm đóng sau 1979, nên dù cho chính quyền Hun Sen đã được Việt Nam thiết lập và hỗ trợ, đã không còn có một quan hệ thực sự thân thiết như trước. Trong lúc đó, Trung Hoa đã tiếp tục phát triển ảnh hưởng ở Căm Pu Chia bằng cách giúp xây một xưởng đóng tàu lớn ở Kompong Som với phí tổn trên 500 triệu Mỹ kim.

Tuy nhiên, chủ trương nhường nhịn Trung Hoa không phải là có được sự đồng nhất trong đảng. Ðầu năm 2001, địa vị của Lê Khả Phiêu đã có những dấu hiệu lung lay khi Hội Nghị Trung Ương Ðảng thảo luận về vấn đề tuổi tác, đã biểu quyết không để cho những ủy viên trên 65 tuổi được tái cử. Cả hai Lê Khả Phiêu và Phan Văn Khải đều gần 70 nhưng điều này nhắm vào Lê Khả Phiêu nhiều hơn. Hai tuần sau, vào đúng ngày mà Bộ Trưởng Quốc Phòng Trung Hoa Trì Hạo Ðiền sang thăm Hà Nội, tại miền Nam, báo Sài Gòn Giải Phóng đăng bài báo tiết lộ chi tiết về hơn 300 vụ vi phạm của Trung Hoa vào lãnh thổ Việt Nam. Tờ báo cũng đăng thêm về kế hoạch bảo vệ và quản lý hành chánh của Việt Nam trên những hòn đảo.

Ðiều này đã gây phản kháng từ phía Bộ Ngoại Giao của Trung Hoa. Có lẽ đó là sự thách thức của phe đổi mới trong miền Nam đối với phe bảo thủ trong Ðảng ngoài Hà Nội trước khi có Ðại Hội Ðảng. Ngoài ra đó cũng là một cách trả đũa Trung Hoa của phe đổi mới đối với sự việc tháng 12 năm 2000, trong ngày mà Trần Ðức Lương sang Trung Hoa để đúc kết thỏa hiệp lãnh hải và thỏa hiệp đánh cá trong vịnh Bắc Việt, phát ngôn viên Bộ Ngoại Giao Trung Hoa đã lên tiếng xác nhận chủ quyền của Trung Hoa trên địa phận tranh chấp Trường Sa. Trước sự phản kháng của Bộ Ngoại Giao Trung Hoa, phát ngôn viên Bộ Ngoại Giao Việt Nam trả lời là bài báo trên Sài Gòn Giải Phóng chỉ là ý kiến của một “tờ báo địa phương.”

Tuy nhiên, mấy ngày sau, báo Lao Ðộng cũng đăng một bài báo trong đó có ghi lại lời của Hà Văn Tấn, viện trưởng Viện Khảo Cổ nói là đã đào được những di chỉ đồ sứ của Việt Nam từ thế kỷ thứ 13 ở những đảo Nam Yết, Song Tử Tây, Sơn Ca, Sinh Tồn Lớn, Phan Vinh, An Bang… chứng minh chủ quyền lâu đời của Việt Nam trong vùng Trường Sa. Cũng trong tháng 2 năm 2001, báo Tiền Phong đăng tin đã bắt giữ Phạm Văn Dũng, phó chủ tịch ủy ban nhân dân phường Hoàng Văn Thụ, Hà Nội về tội làm gián điệp (với ám chỉ là cho Trung Hoa).

Vào ngày 6 tháng 2, 2001, tại tỉnh Ðạc Lắc (Ban Mê Thuột) và Gia Lai (Pleiku), một biến động lớn đã xảy ra (13). Khoảng năm ngàn đồng bào thuộc nhiều sắc dân thiểu số Ê Ðê, Gia Rai,… nổi lên biểu tình phản đối chính quyền đã dung dưỡng và hợp tác với người Kinh liên tiếp chiếm đoạt đất đai của họ để lập đồn điền trồng cà phê, đồng thời cũng ngăn cản họ được không cho theo đạo Tin Lành. Họ cũng đòi được tự trị về chính trị. Vì cà phê là một nguồn xuất cảng quan trọng (mấy năm gần đây Việt Nam đã xuất cảng cà phê chỉ thua có Colombia), dân người Kinh và ngay cả những “khu kinh tế quốc doanh” của quân đội cũng đã từ từ lấn chiếm và khai phá đất đai của dân thiểu số địa phương.

Theo báo Quân Ðội Nhân Dân ngày 27-2-2001, một “khu kinh tế quốc phòng” do binh đoàn 16 phụ trách đã được thành lập tại tỉnh Dak Lak từ năm 1999. Khu kinh tế này chiếm tất cả 584,032 mẫu rừng, được khai hoang để trồng cao su, bông vải, hạt tiêu, cà phê. Do việc khai hoang và định cư dân từ những vùng khác cùng với sự tham nhũng của những viên chức hành chánh bắt ép dân địa phương, những bất mãn đã bùng nổ thành biểu tình bạo động, nhất là khi có tin chính phủ trung ương dự định sẽ xây đập thủy điện ở Sơn La và sẽ phải dời khoảng 100 ngàn người (gốc người Thái) đi nơi khác và nơi khác đó chắc chắn là vùng Tây Nguyên. Ðể đối phó với những cuộc biểu tình, chính quyền địa phương phong tỏa toàn tỉnh, cấm phóng viên ngoại quốc đến lấy tin, kiểm soát đường dây điện thoại, sau đó họ huy động công an, quân đội, xe xịt nước để đàn áp, nhưng các cuộc biểu tình vẫn tiếp tục nhiều ngày tại những địa điểm khác nhau.

Khác với những cuộc biểu tình của nhân dân tỉnh Thái Bình mấy năm trước chỉ phản đối về thuế khóa và những viên chức tham nhũng, cuộc biểu tình này liên quan đến những vấn đề lớn lao hơn như luật lệ về sở hữu đất đai, về tình trạng những sắc dân thiểu số, về tự do tôn giáo và tự trị chính trị. Từ nhiều năm, do văn hóa và nếp sống khác nhau, những sắc dân thiểu số tại vùng Tây Nguyên đã khó hòa đồng vào nếp sống của người Việt. Từ sau 1955, những chính quyền liên tiếp ở Nam Việt Nam đã tương đối để cho họ tự trị và đưa ra nhiều biện pháp nâng đỡ. Tuy thế trong năm 1964, đã có một phong trào nổi loạn của phong trào FULRO ( Front Unifié de Lutte des Races Opprimées – Mặt Trận Ðoàn Kết Những Chủng Tộc Bị Áp Bức) nổi lên trong vùng Ban Mê Thuột. Cuộc nổi lọan này bị dập tắt nhanh chóng, những người cầm đầu chạy qua Căm Pu Chia.

Sau năm 1975, do kinh tế Việt Nam tồi tệ, đời sống của những người dân thiểu số lại càng khốn khó hơn. Ngoài những khó khăn về vật chất, chính quyền còn tìm cách bóp nghẹt quyền tự do tín ngưỡng của họ, nhất là những người theo đạo Công Giáo hay Tin Lành. Vì thế, sau nhiều năm bị chèn ép, họ đã nổi lên biểu tình phản đối.

Trước những cuộc biểu tình của dân chúng Tây Nguyên, Bộ Chính Trị của Ðảng phải họp phiên họp bất thường vào ngày 10-02-2001 để tìm cách đối phó. Trước hết, chính quyền trung ương ra lệnh bắt một số những viên chức hành chánh tỉnh Ðắc Lắc phải xuống ở luôn trong các buôn ấp sinh hoạt với dân chúng và giải quyết nhanh chóng những tranh chấp khiếu nại. Các phái đoàn của Ðảng và chính phủ lần lượt đến tận nơi tra xét. Ðầu tiên là Nguyễn Tấn Dũng đến cao nguyên vào tháng 2/2002, sau đó là Phạm Thế Duyệt, Phan Văn Khải trong tháng 3, cuối cùng là Lê Minh Hương (bộ trưởng công an) đến vào tháng 7 và cuối cùng là Nông Ðức Mạnh đến vào tháng 9. Những biện pháp lấy lòng dân được hứa hẹn, chẳng hạn lập nhà máy điện, mở bệnh viện, trường học, lấy đất công cấp phát cho dân nghèo.

Công tác tuyên truyền cũng được đẩy mạnh, chương trình phát thanh và truyền hình của các sắc tộc khác nhau (Ê Ðê, Jarai, Koho, Mnong và Sedang) được tăng thêm thời gian. Học sinh sinh viên sắc tộc được tăng trợ cấp và quần áo. Những sách báo tuyên truyền ca tụng chính sách về sắc tộc của đảng được in và phân phát, hình Hồ Chí Minh được phát không. Sau đó, một số đất đai bị chiếm lãnh được trao trả bớt lại. Tại Dak Lak, trả lại 165 ngàn mẫu, tại Lâm Ðồng 66 ngàn mẫu. Song song với những biện pháp xoa dịu, chính quyền đổ thừa những vụ biểu tình là nằm trong “âm mưu diễn biến hòa bình của những thế lực thù nghịch” và bắt giữ những người bị nghi là chủ mưu. Chính quyền tuyên bố đã bắt giữ khoảng 20 người và gán những người này là thuộc về lực lượng FULRO từng làm loạn đòi tự trị tại Nam Việt Nam bốn mươi năm trước. Họ tố cáo người cầm đầu là Ksor Kok, hiện định cư tại Hoa Kỳ, mưu định thành lập quốc gia Degar trên vùng Tây Nguyên.

Khoảng một ngàn người, phần lớn là đàn bà và trẻ em bỏ trốn sang Căm Pu Chia, nhưng chỉ một số nhỏ được đi định cư tại những quốc gia khác. Số còn lại bị chính phủ Căm Pu Chia đẩy trở về Việt Nam. Tuy đã có những biện pháp xoa dịu và đàn áp, những bất mãn của những sắc dân thiểu số ở Tây Nguyên vẫn còn âm ỉ. Bị áp lực dư luận của Mỹ, Ðại Sứ Peterson đã lên vùng Tây Nguyên quan sát vào tháng 7 năm 2001, nhưng khi trở về, ông đã than phiền là không được trực tiếp tiếp xúc với dân chúng. Chính quyền Hà Nội cũng mời Hội Ðồng Về Tự Do Tôn Giáo của Hoa Kỳ cử một phái đoàn đến Việt Nam quan sát vào tháng 2 năm 2002. Tuy nhiên, phái đoàn đã không được gặp những Thượng Tọa Thích Huyền Quang, Thích Quảng Ðộ, Linh Mục Nguyễn Văn Lý hay ông Lê Quang Liêm của Phật Giáo Hòa Hảo. Hà Nội đã phản ứng dữ dội khi hai tháng sau, Human Rights Watch đưa ra một bản báo cáo dày 200 trang nhan đề “Ðàn Áp Những Người Miền Núi” lên án chính quyền Cộng Sản Việt Nam. Trước đó, ngày 6-9-01, Hạ Viện Hoa Kỳ biểu quyết đạo luật HR 2833 xác nhận không có tự do tôn giáo ở Việt Nam, nhưng đạo luật này đã bị Thượng Nghị Sĩ Kerry kiềm giữ không cho đưa ra Thượng Viện biểu quyết. Ba năm sau, chính quyền Việt Nam vẫn còn loan báo những xáo động lẻ tẻ vào những ngày lễ Easter hay Giáng Sinh năm 2004.

Lợi dụng biến cố Tây Nguyên, trước ngày Hội Nghị Trung Ương Ðảng lần thứ 12 họp lần chót trước đại hội đảng để quyết định cải tổ nhân sự, Lê Khả Phiêu đã thuyết phục được đa số ủy viên Bộ Chính Trị là trong lúc tình hình đang biến động, không nên thay đổi lãnh đạo. Tuy nhiên, khi Hội Nghị Trung Ương Ðảng họp, ý kiến này bị bác bỏ. Ngoài ra, vì bị Ðỗ Mười và Lê Ðức Anh kiềm chế, Lê Khả Phiêu đã mưu toan dùng Tổng Cục 2, cơ quan tình báo của quân đội đặt máy nghe lén máy điện thoại của những ủy viên Bộ Chính Trị khác (vụ nghe lén này được gọi ám số là A10) để theo dõi hành động và những mưu định của họ.

Vụ này bị Lê Văn Dũng và Phạm Văn Trà báo cho Ðỗ Mười và Lê Ðức Anh. Vì thế, cả hai đã được che chở, chỉ bị khiển trách trong hội nghị. Phạm Văn Trà sau Ðại Hội IX vẫn được giữ làm Bộ Trưởng Quốc Phòng và ở lại Bộ Chính Trị tuy bị sụt thấp xuống 2 hạng, còn Lê Văn Dũng tuy cũng bị khiển trách vì vụ Lý Tống và bị mất chức tham mưu trưởng quân đội, nhưng vẫn được chuyển qua làm chủ nhiệm Tổng Cục Chính Trị và được vào Ban Bí Thư. Phùng Quang Thanh, đang là Tư Lệnh Quân Khu I được cử thay Lê Văn Dũng trong chức Tham Mưu Trưởng Quân Ðội. Ngoài Phạm Văn Trà và Lê Văn Dũng, ba đảng viên cao cấp khác cũng bị khiển trách và sau đó mất chức là Ðoàn Văn Kiên, Hoàng Ðức Nghi và Hà Quang Dự. Ðoàn Văn Kiên là tổng giám đốc tổng công ty than đá Vinacoal, vì quản lý sai lầm đã khiến than sản xuất ra không ai mua bị ứ đọng 4 triệu tấn phải bán phá giá và khiến cho một số lớn nhân công phải nghỉ việc. Hoàng Ðức Nghi, chủ tịch Ủy Ban Sắc Tộc, vì đã để xảy ra biến cố Tây Nguyên và Hà Quang Dự, chủ tịch ủy ban thể dục thể thao, vì có quá nhiều gian lận trong những cuộc tranh giải thể thao. Lê Khả Phiêu bị khiển trách và phê bình về việc nghe lén và mất chức tổng bí thư.

Ðại Hội Ðảng Lần Thứ Tám của đảng Cộng Sản Việt Nam họp vào giữa năm 1996 là lúc mà sự tranh chấp quyền lực giữa bộ ba Mười, Anh, Kiệt cầm quyền đang trở nên gay gắt. Sự tranh chấp này chỉ có thể giải quyết được vào hơn một năm sau, nhưng vì những người thay thế như Phiêu, Lương, Khải đều yếu thế cho nên vai trò chính trị cũng như ảnh hưởng của bộ ba kể trên vẫn còn tồn tại cho tới hết nhiệm kỳ năm năm của đại hội. Trong thời gian đó, Lê Khả Phiêu đã được đưa lên cầm quyền như một biện pháp hòa giải. Vì kém khả năng, không có một hậu thuẫn vững mạnh trong Ðảng và lại phải cầm quyền trong một thời gian mà tình hình quốc tế và quốc nội gặp nhiều khó khăn cho nên Lê Khả Phiêu đã không có được một biện pháp lãnh đạo mạnh mẽ nào để có thể cải thiện tình hình trong mọi phương diện: kinh tế, nội an hay bài trừ tham nhũng… Tệ hại hơn nữa, căn bản là một chính trị viên, trong sự chọn lựa giữa ý thức hệ xã hội chủ nghĩa và quyền lợi quốc gia, Lê Khả Phiêu đã nghiêng nhiều về ý thức hệ và đã nhượng bộ Trung Hoa quá nhiều, nhất là về lãnh thổ và lãnh hải, với hy vọng lấy lòng được những phần tử bảo thủ (phần lớn do Ðỗ Mười và Lê Ðức Anh chi phối) hầu giữ nguyên được quyền vị. Do tình trạng kinh tế sa sút, tệ nạn tham nhũng trong đảng và chính quyền gia tăng, sự bộc phát những bất mãn của nhân dân ở Thái Bình, Ðồng Nai, Tây Nguyên cùng với sự thao túng của Ðỗ Mười và Lê Ðức Anh,… Lê Khả Phiêu đã bị loại ra khỏi phạm vi quyền lực sau khi mới làm Tổng Bí Thư được hơn nửa nhiệm kỳ.

.

_____________

Chú thích:

1. Dù Nguyễn Văn Linh được coi như người bắt đầu phong trào Ðổi Mới ở Việt Nam, nhưng về sau, ông ta rất sợ bị gọi là Gorbachev Việt Nam. Ông ta từng gọi Gorbachev là kẻ “cơ hội.” Những cán bộ cốt cán của Cộng Sản Việt Nam khác cũng rất thù ghét cả Gorbachev lẫn Yeltsin, hai người đã phá sập cái thiên đường của họ. Nhà xuất bản Công An Nhân Dân đã cho xuất bản cuốn sách “Sự Phản Bội Của Gooc Ba Trốp” qui lỗi cho Gorbachev về sự sụp đổ của khối Cộng.

3. Việc mất chức của Nguyễn Hà Phan, tài liệu mật của đảng Cộng Sản Việt Nam ghi rằng: “Trong cuộc chiến tranh giải phóng miền Nam và thống nhất đất nước, khi đồng chí Nguyễn Hà Phan bị bắt và giam cầm, đồng chí đã không giữ được danh dự của người Cộng Sản và đã tiết lộ cho địch những cơ sở nằm vùng. Sau khi được tha năm 1964, đồng chí không báo cáo những sai lầm với Ðảng. Những lỗi lầm của đồng chí Nguyễn Hà Phan rất nghiêm trọng. Trung Ương đảng quyết định xử lý kỷ luật với đồng chí Nguyễn Hà Phan và trục xuất ra khỏi Ðảng” (trích Robert Templer trong Shadows and Wind). Lỗi lầm của Nguyễn Hà Phan cũng như quyết định mật đó của Trung Ương Ðảng chắc chắn do phe Võ Văn Kiệt tiết lộ.

4. Lý Quý Chung trước khi chết đã viết cuốn “Nhật Ký Không Tên.” Người viết không biết nhiều về cá nhân ông, nhưng qua hành động, ông điển hình là một người “cách mạng 30.” Dĩ nhiên là ông đã từng đối lập với chính phủ Cộng Hòa, nhưng chính phủ đó vẫn nương nhẹ ông, để cho ông viết báo chỉ trích chánh phủ, kiếm tiền, làm dân biểu, đi ngoại quốc. Bạn bè ông, người thân của ông đi tù, trong nhật ký của ông, ông không viết một lời thông cảm. Nhật ký chỉ ghi lại những hậm hực vì không được trọng dụng. Một chuyện khác, trong khi cả những cán bộ Cộng Sản cao cấp cũng công nhận lỗi lầm về việc cải tạo công thương nghiệp sau 1975 thì trong nhật ký của ông, điều duy nhất mà ông ấm ức là chính quyền đã tịch thu nhà của cha ông, khi ông “tại tòa báo và thời điểm đó, tôi tuyên truyền cho các cuộc cải tạo tư sản mại bản, công thương nghiệp, tư sản tư doanh .”Bỏ rơi những người quốc gia, nhưng những người Cộng Sản chính thống cũng không coi ông ra gì, ông là điển hình của giai cấp lưng chừng, “phi cầm phi thú” theo như nhà văn Hoàng Hải Thủy.

5. Vụ đàn áp nhân dân Thái Bình: www.hrw.org/reports/1997/vietnam

6. Kaysone Phomvihane: sinh năm 1920, cha là người Việt (tên Nguyễn trí Loan ?), là người thực sự chỉ huy đảng Cộng Sản Ai Lao đằng sau Souphanouvong. Làm tổng bí thư kiêm thủ tướng từ 1975 đến 1991 thì từ chức, lên làm chủ tịch nước. Chết năm 1992, được Việt Nam bỏ tiền ra làm một viện bảo tàng kỷ niệm Phomvihane rất lớn. Mấy năm gần đây, vì Trung Hoa muốn tranh giành ảnh hưởng với Việt Nam tại Lào, cho nên năm 2006, họ làm một cái tượng của Phomvihane cao 8.5m để đặt trước nhà bảo tàng này (xin đọc: Ai Lao: đất và người, của Hàn Lệ Nhân, website Vietnamexodus).

7. Vụ án của Trịnh Vĩnh Bình và Phương Vicarrent, xin đọc bài của Trần Quốc Hoàn (bút hiệu) và bài của ký giả Trọng Kim (báo Ngày Nay) trên website Ðàn Chim Việt. Người viết Trần Quốc Hoàn, có lẽ là một nhân viên trong Bộ Công An nên cũng đã rất rõ về Nguyễn Khánh Toàn. Nguyễn Khánh Toàn là nhân vật số 2 trong Bộ Công An, vào năm 2007 còn bị tai tiếng về gian lận nhà đất. Ông Hoàn còn biết rõ vợ Nguyễn Khánh Toàn là Phạm Gia Liên có hùn hạp làm ăn với Ngô Chí Ðan.

8. Theo Sheri Prasso (http://sheridanprasso.com/viet.trade.htm), người ra lệnh cho Phan Văn Khải không ký BTA là Ðỗ Mười dù cho lúc đó Ðỗ Mười không còn là tổng bí thư, cũng không phải là ủy viên Bộ Chính Trị mà chỉ là “cố vấn.” Mấy năm sau, trong một Hội Nghị Trung Ương Ðảng, nhiều ủy viên trung ương đã chỉ trích gay gắt Ðỗ Mười là làm trái nguyên tắc, nhưng lúc này Ðỗ Mười cũng đã không còn là cố vấn.

9. Chuyến đi của Phạm Thế Duyệt sang Trung Hoa năm 1999, ngoài việc tham khảo ý kiến về thỏa ước BTA, còn để học hỏi thêm về việc phát triển Mác xít khi thực hành kinh tế tư bản. Ðể biện luận điều này, ủy viên Bộ Chính Trị Trung Hoa Li Ruihuan nói rằng “chủ nghĩa Mác không gạt bỏ mà còn hấp thụ tất cả những thành tựu của văn minh loài người”

10. Trong lễ ký kết thỏa ước, Phan Văn Khải đến tham dự, nhưng Chu Ðông Cơ không đến, mà chỉ cử Hoàng Nghị (Wang Yi), trưởng phái đoàn thương thuyết của Trung Hoa, tương đương với cấp thứ trưởng thay mặt mà thôi.

11. Việc xé lẻ ASEAN của Trung Hoa được Trần Quang Cơ gọi là để tránh cảnh “quần lang đả hổ.”

12. Cuộc đời Lý Tống là một cuộc đời bất khuất nhưng cũng ly kỳ không kém những nhân vật của Jack London và đã được kể lại trong báo Reader’s Digest. Ông mãn hạn tù (lần thứ ba) ở Thái Lan năm 2007, chính quyền Cộng sản Việt Nam đòi dẫn độ ông về Việt Nam. Mới đầu, tòa sơ thẩm đồng ý nhưng ngày 3-4-2007, tòa phúc thẩm đã bác bỏ chuyện này vì hành động của Lý Tống đối với Việt Nam có tính cách chính trị và luật Thái Lan không cho phép dẫn độ tù chính trị. Ông trở về Hoa Kỳ vào tháng 4, 2007. Tổng cộng ông đã ở tù 21 năm. Trong lần đầu tiên vượt ngục từ Việt Nam tới Singapore, ông được chuyển qua trại Galant để cứu xét định cư, có một hội đoàn gửi tặng ông 500 Mỹ kim, ông đã không dùng và bỏ hết vào quĩ giáo dục trẻ em tị nạn trên đảo.

13: Vụ xáo trộn Tây Nguyên: Thunder from the Highlands của Margot Cohen trong Tập san Far Eastern Economic Review số tháng 3, 2001.

*

Trung tuần tháng 4 năm 2001, đảng Cộng Sản Việt Nam tổ chức Ðại Hội Ðảng Lần Thứ IX để kiểm điểm lại những thành tích trong năm năm qua, đồng thời cũng xếp đặt lại nhân sự và đề ra những đường lối mới trong vòng năm năm tới.

Thành tích của những năm sau Ðại Hội Ðảng Lần Thứ VIII năm 1996 đã không được lạc quan. Do sự tranh chấp giữa hai phe đổi mới và bảo thủ trong Ðảng, cho nên đã không có một biện pháp quyết liệt nào được đưa ra khi phải đối phó với những đổi thay của tình hình kinh tế trên thế giới, nhất là đã không có một kế hoạch nào để đối phó với cơn khủng hoảng tiền tệ trong vùng Ðông Nam Á năm 1997. Số vốn đầu tư của ngoại quốc vào Việt Nam trong những năm này đã sụt xuống thấp hơn năm 1992, cán cân mậu dịch bị thâm thủng tới 150 phần trăm, nạn thất nghiệp ngày càng gia tăng vì dân số đã tăng nhanh chóng, mỗi năm lại có thêm gần 1 triệu người đến tuổi lao động

Ðại Hội Ðảng Lần IX vào tháng 4 năm 2001 đã được chuẩn bị từ những Hội Nghị Trung Ương Ðảng lần thứ 9 của khóa VIII đầu năm 2000. Cho tới Hội Nghị Trung Ương lần thứ 11 vào tháng 2, 2001 thì đã có nhiều dấu hiệu chứng tỏ là Tổng Bí Thư Lê Khả Phiêu sẽ bị mất chức dù mới được làm việc có hơn nửa nhiệm kỳ. Nghị quyết của Hội Nghị Trung Ương Ðảng lần thứ 11 này đã khuyến cáo là những người trên 65 tuổi không nên ra ứng cử để trẻ trung hóa guồng máy lãnh đạo. Ðiều này nhắm vào Lê Khả Phiêu (sinh năm 1931, sắp 70 tuổi) và Lê Khả Phiêu đã phải tích cực vận động để được thêm vào câu “trừ vài chức vụ then chốt.” Ngoài ra, để tạo áp lực với những phần tử bảo thủ, Lê Khả Phiêu đã dàn xếp để việc canh giữ an ninh cho Ðại Hội Ðảng không được giao cho công an phụ trách như mọi lần mà được giao cho quân đội. Trong dịp hội nghị lần thứ 11 này, Trung Ương Ðảng cũng cho biết là đã có hàng ngàn lá thư góp ý kiến vào bản dự thảo nghị quyết của Ðại Hội Ðảng. Tuy Ðảng bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc về những ý kiến đóng góp này nhưng sau đó, bản nghị quyết chính thức vẫn giống y như bản dự thảo.

Hiển nhiên là trong những năm sau Ðại Hội Ðảng lần thứ VIII (1996), nhiều biến cố không thuận lợi đã xảy ra như sự sa sút của kinh tế Việt Nam, tệ nạn tham nhũng tràn lan, những bất ổn ở Thái Bình, Ðồng Nai, Tây Nguyên đã khiến những ủy viên Trung Ương Ðảng không tín nhiệm Lê Khả Phiêu ở trách nhiệm lãnh đạo. Nhưng cũng nhờ biến cố Tây Nguyên, Lê Khả Phiêu đã cố gắng thuyết phục những ủy viên Bộ Chính Trị là “không nên có thay đổi lãnh đạo trong khi trong nước đang có rối loạn” để có thể ra tái cử. Nhiều ủy viên Bộ Chính Trị dĩ nhiên cũng muốn ở lại thêm một nhiệm kỳ nên ít ra đã có 2 phần 3 ủy viên đồng ý. Nhưng dù vậy, đề nghị này đã bị Hội Nghị Trung Ương Ðảng lần thứ 12 họp mấy ngày trước ngày Ðại Hội Ðảng bác bỏ, một điều hiếm hoi ít khi xảy ra.

Sự mất chức của Lê Khả Phiêu ngoài những nguyên nhân khách quan kể trên còn do những vụng về lầm lỗi của cá nhân Lê Khả Phiêu. Trước hết, tuy không có một hậu thuẫn chính trị vững mạnh, kể cả trong quân đội, Lê Khả Phiêu ngoài ý muốn được tiếp tục làm tổng bí thư ít ra là đủ một nhiệm kỳ 5 năm, lại còn muốn kiêm nhiệm thêm chức vụ chủ tịch nhà nước để được coi như quốc khách khi đi công du các nước khác, giống như Gorbachev hay Giang Trạch Dân. Vì Lê Khả Phiêu vận động chuyện này khá công khai, điều này đã gây bất mãn trong những ủy viên trung ương. Nhưng lỗi lầm lớn nhất của Lê Khả Phiêu là đã mưu toan bãi bỏ chức vụ của ba “cố vấn.” Trong ba người này, Võ Văn Kiệt dĩ nhiên luôn luôn chống đối với Lê Khả Phiêu. Người mà Võ Văn Kiệt đỡ đầu cho vào ban Thường Vụ Bộ Chính Trị là Nguyễn Tấn Dũng đã bị Phiêu loại ra ngoài ngay sau khi Phiêu được lên chức. Ðỗ Mười và Lê Ðức Anh, tuy cùng chung khuynh hướng bảo thủ nhưng đã tức giận khi bị Lê Khả Phiêu mưu toan loại họ ra khỏi phạm vi quyền lực.

Trong Ðại Hội Ðảng Toàn Quân ngày 4-1-2001, Lê Ðức Anh đã làm cho các đại biểu quân đội ngạc nhiên khi công khai kết tội Lê Khả Phiêu, người đã từng được Lê Ðức Anh nâng đỡ để thăng tiến. Ðồng thời, trong Ðảng, Ðỗ Mười cũng tích cực vận động để loại bỏ Lê Khả Phiêu. Trong hồi ký của Ðoàn Duy Thành, Ðoàn Duy Thành kể lại là Ðỗ Mười đã nói: “Nó muốn lật tao, tao lật nó.” Nguyễn Ðức Tâm trong thư gửi Trung Ương Ðảng vào dịp Ðại Hội Ðảng lần thứ X cũng kể lại là Ðỗ Mười đã cho phổ biến một bản báo cáo tố cáo Lê Khả Phiêu đã giao du thân mật với những phụ nữ như Ðặng Thị Thu Hà, Vũ Thị Dung… trong đó có người hoạt động tình báo cho ngoại quốc (ám chỉ Trung Hoa). Vì thế, tuy khác khuynh hướng, cả ba đã ký tên chung trong một bức thư gửi cho các ủy viên trung ương để chê trách khả năng lãnh đạo của Lê Khả Phiêu. Ðiều mỉa mai cho Lê Khả Phiêu là khi Nông Ðức Mạnh được bầu làm tổng bí thư, ông ta chỉ nhận chức vụ với điều kiện là không còn ba cố vấn và cả bộ ba này đã chấp nhận. Một lỗi lầm nữa của Lê Khả Phiêu là đã dùng Tổng Cục 2 Tình Báo của quân đội để dùng máy ghi âm nghe lén những ủy viên Bộ Chính Trị khác (vụ A10).

Nếu Ðỗ Mười muốn loại Lê Khả Phiêu là vì Phiêu có ý phản bội, loại bỏ những cố vấn, Lê Ðức Anh đã muốn loại Lê Khả Phiêu với một thâm ý khác. Tin tưởng là hậu thuẫn của mình còn mạnh, Lê Ðức Anh dù đã về hưu và làm cố vấn nhưng lại muốn trở lại làm tổng bí thư, cho nên dù đã được Phạm Văn Trà và Lê Văn Dũng báo cáo về việc Lê Khả Phiêu dùng Tổng Cục 2 nghe lén điện thoại từ nhiều tháng trước, nhưng đã chờ cho tới khi những Hội Nghị Trung Ương Ðảng cuối cùng của khóa VIII họp, khi đảng Cộng Sản sắp xếp nhân sự lãnh đạo cho Ðại Hội Ðảng lần thứ IX, mới cho trợ lý của mình là Nguyễn Bắc Son đi khắp nơi báo cáo và nói xấu Lê Khả Phiêu (1). Cuối cùng, một lý do khác khiến Lê Khả Phiêu bị mất chức là thái độ qui phục Trung Hoa và việc nhân nhượng đất đai đã gây bất bình cho một số đảng viên.

Kể từ 1986, sau khi phát động đường lối đối ngoại “đa phương và đa dạng,” Việt Nam đã cố gắng, một mặt kết chặt thân hữu ngoại giao với Trung Hoa, mặt khác cải thiện quan hệ ngoại giao với các nước khác (như các nước ASEAN, Nhật Bản, Tây Âu, Hoa Kỳ…)  Tuy vì căn bản đều là xã hội chủ nghĩa, Việt Nam đã thiên về Trung Hoa, nhưng sự thiên vị đã trở nên quá đáng trong thời gian Lê Khả Phiêu làm tổng bí thư, khiến Việt Nam giống như một nước chư hầu. Những thỏa hiệp về ranh giới lãnh thổ hay lãnh hải với Trung Hoa đã không hề được tham khảo ý kiến với Trung Ương Ðảng và cũng chưa được sự chấp thuận của Bộ Chính Trị hay đưa ra trước quốc hội. Do đó, vào kỳ Ðại Hội Ðảng tháng 4, 2001, dù cho có Hồ Cẩm Ðào, phó chủ tịch nhà nước và tổng bí thư tương lai của Trung Hoa, sang tham dự và ngồi cạnh, điều này đã không giúp gì được cho Lê Khả Phiêu. Ngoài ra, ba ngày trước đại hội, khi Hồ cẩm Ðào tới Hà Nội, báo Nhân Dân đã đăng bài xác nhận chủ quyền đất đai của Việt Nam ở biển Ðông, gián tiếp nhắc nhở đến khuynh hướng bành trướng của Trung Hoa và thái độ cầu cạnh của Lê Khả Phiêu.

Trong bản báo cáo kinh tế đọc trước đại hội đảng, có đoạn là Việt Nam sẽ xây dựng những cơ sở hậu cần ở những hải đảo để phát triển kinh tế cũng như quốc phòng. Sợ mất lòng Trung Hoa, Nguyễn Dy Niên sau đó giải thích đó chỉ là một đường lối chung còn việc áp dụng là tùy theo địa phương hay trường hợp.

Sau khi đã loại Lê Khả Phiêu, những ủy viên Trung Ương Ðảng bắt đầu họp để bầu tổng bí thư vào ngày 17-4-2001, hai ngày trước đại hội chính thức của đảng. Trong vòng đầu, có ba người được đề cử là Nông Ðức Mạnh, Nguyễn Văn An và Trần Ðức Lương. Tuy dẫn đầu, nhưng Nông Ðức Mạnh được chưa tới 60% số phiếu, người về thứ hai là Nguyễn Văn An, trưởng ban tổ chức đảng được 35% và Trần Ðức Lương được khoảng gần 10%. Vì tỷ số phiếu 35% của Nguyễn Văn An là một số phiếu vững chắc của những cán bộ hoạt động trong tổ chức đảng(2), Nông Ðức Mạnh cảm thấy không an tâm, sợ rằng với tư cách trưởng ban tổ chức đảng, Nguyễn Văn An có thể gây khó khăn hay có thể kiếm thêm được một số hậu thuẫn để lật lại mình. Ngoài ra, với ảnh hưởng sâu rộng của bộ ba “cố vấn,” Nông Ðức Mạnh sẽ có thể bị trói tay như Lê Khả Phiêu. Do đó, mới đầu Nông Ðức Mạnh đã từ chối không nhận chức.

Sự từ chối của Nông Ðức Mạnh gây khó khăn cho ủy ban trung ương, vì trong số những ứng viên, chỉ có Nông Ðức Mạnh là có những điều kiện thuận lợi.

Trước hết, từ trước tới nay, Nông Ðức Mạnh vẫn là người đứng ngoài những tranh chấp giữa hai phe bảo thủ và đổi mới. Trong gần mười năm làm chủ tịch quốc hội, quốc hội này đã chấp thuận hết những đạo luật đổi mới kinh tế lẫn đàn áp chính trị nên đã được lòng cả hai phe. Uy tín của quốc hội cũng khá hơn khi quốc hội được quyền triệu tập bộ trưởng ra điều trần công khai. Vì chức thủ tướng chắc chắn về tay Phan Văn Khải, một người miền Nam và chức chủ tịch nhà nước là Trần Ðức Lương, người miền Trung, chức tổng bí thư phải là người miền Bắc như Nông Ðức Mạnh hay Nguyễn Văn An. Ngoài ra, với tin đồn là con rơi của Hồ Chí Minh, cá nhân và đời tư của Nông Ðức Mạnh sẽ không bị phanh phui (khi được hỏi, Nông Ðức Mạnh đã không phủ nhận và cũng không xác nhận tin đồn này).

Sau cùng, nhờ là gốc người Tầy, được cử lên làm một chức vụ quan trọng nhất nước sẽ chứng tỏ là chính quyền Việt Nam không kỳ thị chủng tộc, xoa dịu bớt sự phẫn nộ của dân thiểu số đang biểu tình gây rối trên vùng Tây Nguyên và làm vừa lòng Trung Hoa

Vì không có ai thay thế và thời giờ quá gấp rút, chức vụ tổng bí thư phải được bầu ngay để có thể đưa ra cho đại hội đảng “nhất trí biểu quyết chấp thuận” hai ngày sau nên Trung Ương Ðảng phải tìm biện pháp hòa giải bằng cách thuyết phục để ba “cố vấn” từ chức, không còn dính dáng gì đến việc điều hành của Bộ Chính Trị, đồng thời, thuyên chuyển Nguyễn Văn An ra khỏi ban tổ chức, sang làm chủ tịch quốc hội. Sau khi đạt được những nhượng bộ kể trên, Nông Ðức Mạnh chính thức nhận lời làm tổng bí thư. Tuy vậy, vây cánh của Ðỗ Mười và Lê Ðức Anh vẫn còn rất mạnh (như Phạm Văn Trà, Trần Ðình Hoan, Phan Diễn, Nguyễn Khoa Ðiềm…). Hai người này đã ủng hộ Nông Ðức Mạnh vì thấy Nông Ðức Mạnh là người tương đối không có một hậu thuẫn vững mạnh nào để chống lại họ.

Tân tổng bí thư của đảng Cộng Sản Việt Nam sinh năm 1940 ở tỉnh Bắc Thái, được du học Liên Xô và tốt nghiệp kỹ sư lâm nghiệp, sau đó về làm việc ở ty lâm nghiệp Bắc Thái, thăng trưởng ty năm 1977, sau đó được bầu làm chủ tịch ủy ban nhân dân tỉnh Bắc Thái năm 1986. Năm năm sau, trở nên ủy viên trẻ nhất của Bộ Chính Trị và được đề cử làm chủ tịch quốc hội từ năm 1992.

Ngoài chức tổng bí thư, Ðại Hội Ðảng cũng bầu ra 150 ủy viên Trung Ương Ðảng, trong đó đứng đầu là một Bộ Chính Trị gồm 15 người sắp xếp theo thứ tự:

1. Nông Ðức Mạnh: Tổng bí thư

2. Trần Ðức Lương, kiêm nhiệm chức chủ tịch nhà nước

3. Phan Văn Khải, kiêm nhiệm thủ tướng

4. Nguyễn Minh Triết, bí danh Sáu Phong, là bí thư thành ủy thành phố HCM từ 2001. Trước đó, Nguyễn Minh Triết là bí thư tỉnh ủy Bình Dương, đã thiết lập một khu kỹ nghệ hỗn hợp với Singapore tương đối thành công.

5. Nguyễn Tấn Dũng, phó thủ tướng

6. Lê Minh Hương, bộ trưởng công An

7. Nguyễn Phú Trọng, bí thư thành ủy Hà Nội

8. Phan Diễn, bí thư thành ủy Ðà Nẵng. Hơn một năm sau, được cử làm thường vụ Ban Bí Thư, một chức vụ quan trọng để cùng Nông Ðức Mạnh điều hành hoạt động hàng ngày của nội bộ đảng

9. Lê Hồng Anh, trưởng ban kiểm soát Ðảng, từng là bí thư tỉnh ủy Kiên Giang, trong lý lịch khai là có bằng cử nhân luật và chính trị

10. Trương Tấn Sang trưởng ban kinh tế Ðảng, quê ở Ðức Hòa, Long An. Trương Tấn Sang cũng là anh em vợ của Nguyễn Tấn Dũng và là anh em của Trương Mỹ Hoa, từng là phó chủ tịch nhà nước.

11. Phạm Văn Trà, bộ trưởng Quốc Phòng

12. Nguyễn Văn An trưởng ban tổ chức đảng, từng là bí thư tỉnh ủy Hà Nam, từ tháng 11, 2001 được đổi qua làm chủ tịch quốc hội.

13. Trương Quang Ðược, trưởng ban vận động của đảng, từng là bí thư thành ủy Ðà Nẵng trước Phan Diễn.

14. Trần Ðình Hoan, sau này làm trưởng ban tổ chức Trung Ương Ðảng (3)

15. Nguyễn Khoa Ðiềm, sau này rời chức bộ trưởng Thông Tin Văn Hóa để thăng làm trưởng ban thông tin văn hóa của Ðảng .

Xét thành phần Bộ Chính Trị khóa IX, số đại diện quân đội chỉ còn có một người là Phạm Văn Trà. Phạm Văn Trà đã được giữ lại vì theo phe Lê Ðức Anh chống lại Lê Khả Phiêu. Nhờ uy tín quân đội giảm sút sau vụ Lê Khả Phiêu cho đặt máy nghe lén, phe công an mạnh hơn lên trong phe bảo thủ, dưới quyền của Lê Minh Hương, sau đó là Lê Hồng Anh. Ở giữa nhiệm kỳ, Lê Minh Hương chết, Lê Hồng Anh, dù không có kinh nghiệm một ngày trong quân đội hay công an cũng được phong chức đại tướng công an và được cử lên thay chức bộ trưởng. Ban Thường Vụ Bộ Chính Trị năm người của khóa trước bị giải tán và Trung Ương Ðảng giành lại quyền bầu cử Ban Bí Thư. Nhờ vậy, Lê Văn Dũng tuy đã bị khiển trách vì đã để cho tổng cục 2 đặt máy nghe lén nhưng cũng được chọn vào Ban Bí Thư này (xếp hàng thứ 6 trong 9 người). Số ủy viên Trung Ương Ðảng cũng được giảm xuống từ 170 còn 150, trong đó 87 là ủy viên cũ, 63 là người mới. Số ủy viên Bộ Chính Trị từ 18 xuống còn 15 người, 7 người trong Bộ Chính Trị cũ bị mất chức, trong đó có Lê Khả Phiêu, Phạm Thanh Ngân, Phạm Thế Duyệt, Nguyễn Ðức Bình, Nguyễn Thị Xuân Mỹ. Nguyễn Thị Xuân Mỹ là ủy viên Bộ Chính Trị phái nữ đầu tiên và duy nhất, được giao phụ trách ban kiểm soát của đảng, bị mất chức vì đã không chận đứng được tham nhũng và hối lộ (4).

Do tinh thần bè phái của Lê Khả Phiêu (nâng đỡ người cùng tỉnh, xây dựng những công thự, cầu cống không cần thiết ở Thanh Hóa…) đã gây bất mãn, nên Tư Lệnh Quân Khu 4 cũng như tỉnh ủy tỉnh Thanh Hóa đã không được bầu vào Trung Ương Ðảng. Người thân cận của Lê Khả Phiêu trong Bộ Chính Trị là Phạm Thanh Ngân cũng bị mất chức ủy viên và mất luôn chức chủ nhiệm Tổng Cục Chính Trị Quân Ðội. Hai ủy viên Bộ Chính Trị mới là Trần Ðình Hoan và Nguyễn Khoa Ðiềm được bầu là do hậu thuẫn còn mạnh mẽ của Ðỗ Mười và Lê Ðức Anh, sau đó, hai người này còn giúp cho Trần Ðình Hoan lên thay Nguyễn Văn An làm trưởng ban tổ chức đảng, một chức vụ quan trọng trong việc sắp xếp nhân sự. Trong khi đó, Phạm Văn Trà và Lê Văn Dũng còn tại vị là nhờ sự vận động tích cực của Lê đức Anh. Cùng với Lê Hồng Anh, Nguyễn Phú Trọng và Lê Minh Hương, Trần Ðình Hoan và Nguyễn Khoa Ðiềm tạo nên một khối bảo thủ vững chắc trong Bộ Chính Trị. Ngoài ra, dù đã từ chức cố vấn, Ðỗ Mười và Lê Ðức Anh vẫn tham dự nhiều buổi họp của Trung Ương Ðảng và vẫn còn có thế lực rất mạnh.

Tình trạng dằng dai của bộ ba cầm quyền Ðỗ Mười, Lê Ðức Anh và Võ Văn Kiệt sẽ còn kéo dài nếu Lê Ðức Anh không bị xuất huyết mạch máu não vào tháng 11, 1996. Khi Lê Ðức Anh phải vào bệnh viện, Võ Văn Kiệt ở bên ngoài chẳng những đã không nói lời chúc chóng lành bệnh mà còn tuyên bố là nếu Lê Ðức Anh phải nằm bệnh viện lâu, Trung Ương Ðảng sẽ phải bầu một chủ tịch mới vì “một nước không thể nào không có chủ tịch.” Cùng lúc đó, phe Võ Văn Kiệt cũng ngầm tố cáo những hành động sai trái của Lê Ðức Anh khi ở Căm Pu Chia và thái độ hành hạ công nhân khi làm cai đồn điền cao su trong những năm 1940. Vì thế, cho nên dù đã lớn tuổi và sau khi ngã bệnh bị yếu đi nửa người, Lê Ðức Anh cũng không chịu về hưu mà chờ tới tháng 9 năm 1997 mới dàn xếp để cùng với đối thủ là Võ Văn Kiệt từ chức cùng một lúc, nhường chỗ cho Trần Ðức Lương và Phan Văn Khải.

Dù được tiếng là người của phe đổi mới, chính Võ Văn Kiệt đã là người ký “Chỉ thị về Quản chế Hành chánh” (sắc luật 31/CP) ngày 14-4-97 để “áp dụng cho những phần tử vi phạm luật lệ, phá hoại an ninh quốc gia, nhưng không trầm trọng lắm để có thể đưa ra tòa xử như một trọng tội.” Chỉ thị này nhằm hợp pháp hóa việc bắt giữ những tiếng nói đối lập, gán cho họ vào thành phần của “những thế lực thù nghịch phát động diễn biến hòa bình,” cho phép những cơ quan hành chánh hay công an địa phương có quyền bắt và giam giữ bất cứ người nào trong vòng từ sáu tháng đến hai năm mà không cần phải đưa ra xét xử, không cho bị cáo một cơ hội biện hộ. Ngoài ra, do đề nghị của Lê Ðức Anh và Ðoàn Khuê, Võ Văn Kiệt đã ký sắc luật 96/CP nâng cục quân báo C2 lên thành cấp tổng cục, khiến cho quyền hành của Tổng Cục 2 này lớn hơn quyền hạn của công an, tăng cường hơn nữa sự kiểm soát nhân dân. Ðiều 1, chương 1 của sắc lệnh này cho phép Tổng Cục 2 có quyền hạn hoạt động trong đủ mọi ngành như chính trị, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, kinh tế, khoa học kỹ thuật, kỹ nghệ và môi trường, văn hóa xã hội. Ðiều 11, chương 2 của sắc luật này ghi rõ “Mục tiêu của những lực lượng tình báo quốc phòng là thu thập tin tức và tài liệu liên quan đến Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam. Phải đặc biệt chú trọng đến những quốc gia, những tổ chức hay cá nhân trong nước cũng như ngoài nước đang âm mưu hay tham gia vào những hoạt động nhằm chống lại đảng Cộng Sản hay nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam.” Tổng cục này chỉ chịu trách nhiệm với Bộ Trưởng Quốc Phòng, Bộ Chính Trị và Chủ Tịch Nước. Vì quyền hạn quá rộng lớn, bao gồm đủ mọi phạm vi, lại được quyền cho người đến nằm vùng tại các cơ quan, tổng cục này sau đó đã gây ra rất nhiều lạm dụng.

Chủ nhiệm của Tổng Cục 2 lúc đó là Vũ Chính, một người thân cận của Lê Ðức Anh khi còn ở quân khu IX và Căm Pu Chia. Vũ Chính lên thay Như Văn từ năm 1995. Sau khi nhậm chức, Vũ Chính thay hết những cán bộ cũ bằng những người thân tín. Con trai là Ðặng Vũ Dũng đi lao động từ Ðông Ðức về được cho làm giám đốc công ty xây dựng Hồng Bàng của tổng cục, con gái là Ðặng Thị Mai được mang quân hàm đại úy với công tác “cán bộ mật,” vợ là Ðặng Thị Nhẫn bắt ép vợ của Như Văn nhường lại chức giám đốc khách sạn Hoàng Ðế, và vợ của Trần Tiến Cung (tổng cục phó) cũng phải nhường lại chức giám đốc chi nhánh miền Trung của công ty du lịch Deti Tour. Ðược 5 năm, tới năm 2000 thì Vũ Chính về hưu, nhường chức lại cho con rể là Nguyễn Chí Vịnh, con ruột của Nguyễn Chí Thanh, đồng thời, Ðặng Vũ Dũng cũng trở về Tổng Cục 2 và được cử làm cục phó cục 12, hoạt động tình báo ở miền Nam.

Ba tháng sau ngày Võ Văn Kiệt và Lê Ðức Anh từ chức, do những thỏa thuận từ trước trong Trung Ương Ðảng, đến lượt Ðỗ Mười phải nhường chức Tổng Bí Thư cho Lê Khả Phiêu, người đang nắm chức chủ nhiệm Tổng Cục Chính Trị của quân đội. Có tin là trong Hội Nghị Trung Ương Ðảng họp vào cuối tháng 12, 1997, Lê Ðức Anh vẫn mưu toan đưa Lê Khả Phiêu lên Chủ Tịch Nhà Nước để tự mình nắm chức Tổng Bí Thư nhưng mưu toan này thất bại vì chính Ðỗ Mười cũng không muốn từ chức. Nhờ được Ðỗ Mười đỡ đầu, Lê Khả Phiêu thắng được một đối thủ mạnh mẽ là Nguyễn Văn An, đang giữ chức trưởng Ban Tổ Chức Ðảng. Thay chỗ cho Lê Khả Phiêu trong chức chủ nhiệm Tổng Cục Chính Trị là Tướng Phạm Thanh Ngân, trước đó là tư lệnh không quân, ít lâu sau cũng được Lê Khả Phiêu đưa vào Bộ Chính Trị. Một năm sau, khi Ðoàn Khuê bị bệnh chết thì Phạm Văn Trà đang là tham mưu trưởng quân đội được cử lên nắm Bộ Quốc Phòng. Tướng Ðào Trọng Lịch, đang là tư lệnh Quân Khu II được cử lên làm tham mưu trưởng quân đội.

Riêng về Ban Thường Vụ Bộ Chính Trị, sau khi bộ ba Mười, Anh, Kiệt từ chức, Lê Khả Phiêu với tư cách Tổng Bí Thư, đã áp lực để đẩy Nguyễn Tấn Dũng ra ngoài, thay vào đó là Phạm Thế Duyệt, và Ban Thường Vụ mới này gồm có 5 người: Lê Khả Phiêu, Trần Ðức Lương, Phan Văn Khải, Nông Ðức Mạnh và Phạm Thế Duyệt. Còn ở Bộ Chính Trị, bốn người thay thế Mười, Anh, Kiệt và Nguyễn Ðình Tứ là Phan Diễn, bí thư thành ủy Ðà Nẵng, Nguyễn Phú Trọng, bí thư thành ủy Hà Nội và Nguyễn Minh Triết, bí thư thành ủy thành phố HCM cùng với Phạm Thanh Ngân, một người thân tín của Lê Khả Phiêu vừa được cử làm chủ nhiệm Tổng Cục Chính Trị thay Lê Khả Phiêu. Tuy bộ ba Mười, Anh, Kiệt đã chính thức về hưu, trở nên “cố vấn,” nhưng Ðỗ Mười và Lê Ðức Anh vẫn còn ảnh hưởng mạnh mẽ trong Bộ Chính Trị và ngay cả trong Ban Thường Vụ trong suốt nhiệm kỳ của Ðại Hội VIII và IX. Chỉ có Võ Văn Kiệt sau khi từ chức dần dần bị thất thế.

Mấy năm sau, nhân viết một bài nhận xét về cuốn sách của Lý Quí Chung và bị Nguyễn Khoa Ðiềm chỉ trích trên báo chí, Võ Văn Kiệt viết thư trả lời nhưng Nguyễn Khoa Ðiềm không cho báo chí đăng lại, ông ta đã phải viết một thư khác phổ biến ra hải ngoại trong đó có câu.”.. Ðối với người như tôi mà đồng chí còn không cho in bài thì người dân có quyền gì nói lên sự thật…” Trong thư này, dù là một người tương đối cấp tiến và viết một lá thư chính thức để phổ biến công khai, lời lẽ trong thư đối với những người cam tâm đầu hàng vẫn có vẻ khinh miệt: .”..trừ những đoạn mà đám Nhuận, Ðức, Hạnh không chịu vì có liên quan…” (“đám” Hồ Ngọc Nhuận, Ngô Công Ðức và Nguyễn Hữu Hạnh đòi Lý Quí Chung bỏ đi những đoạn này có lẽ vì đã kể lại những hành động không đáng hãnh diện của họ)

Tân Tổng Bí Thư Lê Khả Phiêu sinh năm 1931 tại Ðông Khê, Thanh Hóa, gia nhập đảng Cộng Sản từ năm 1949. Suốt mấy chục năm trong quân ngũ và trong đảng, Lê Khả Phiêu chỉ giữ những chức chính ủy trong quân đội. Trong Chiến Tranh Ðông Dương I trước 1954, Lê Khả Phiêu là chính ủy đại đội, trong chiến tranh Ðông Dương II, Phiêu là chính ủy trung đoàn 9/ sư đoàn 304. Sau đó lên chính ủy sư đoàn rồi chính ủy quân khu Trị Thiên. Trong chiến tranh Căm Pu Chia, Lê Khả Phiêu làm chính ủy quân đoàn 2 rồi phó chính ủy quân khu 9. Trong thời gian chiếm đóng Căm Pu Chia, Lê Khả Phiêu được thăng thiếu tướng. Sau thời gian này, nhờ được thân cận với Lê Ðức Thọ và Lê Ðức Anh, Lê Khả Phiêu lại được thăng lên trung tướng, làm chủ nhiệm Tổng Cục Chính Trị và sau đó vào Bộ Chính Trị rồi lên Tổng Bí Thư. Vì chỉ giữ những chức vụ thuần túy chính trị trong quân đội, Lê Khả Phiêu không có được hậu thuẫn vững mạnh trong đảng (như Nguyễn Văn Linh, Ðỗ Mười, đã từng làm nhiều chức vụ và công tác ở nhiều nơi), hay trong quân đội (như Lê Ðức Anh, từng có nhiều quan hệ với những tư lệnh quân khu khi làm bộ trưởng Bộ Quốc Phòng). Do đó mà Lê Khả Phiêu thường phải dựa vào phe bảo thủ và sau đó là dựa vào Trung Hoa.

Sự đề cử Trần Ðức Lương lên thay Lê Ðức Anh làm chủ tịch nhà nước tương đối là một bất ngờ. Trong Bộ Chính Trị, ông ta chỉ đứng hàng thứ 16. Trần Ðức Lương sinh năm 1937 tại Quảng Ngãi, từng tốt nghiệp đại học về địa chất và được làm giám đốc Nha Ðịa Chất năm 1979. Ông ta gia nhập đảng Cộng Sản năm 1959 và được cử làm ủy viên Trung Ương Ðảng năm 1991 và vào Bộ Chính Trị năm 1996. Từ 1987 đến 1997 từng là phó thủ tướng cho Võ Văn Kiệt.

Việc Trần Ðức Lương được lên làm Chủ Tịch Nhà Nước cũng là một thất bại cho Ðoàn Khuê. Ông ta vẫn mong muốn được thay thế Lê Ðức Anh. Ðoàn Khuê, sinh năm 1923, cựu tư lệnh quân khu V, từng làm tham mưu trưởng quân đội năm 1987 và bộ trưởng Quốc Phòng năm 1991, là một người nhiều tham vọng. Trong thời gian trước đại hội VIII, phe bảo thủ, trong đó có quân đội và công an (gồm Ðoàn Khuê, Lê Khả Phiêu, Phạm Văn Trà, Lê Minh Hương) tương đối chiếm ưu thế trong Bộ Chính Trị. Vì Ðào Duy Tùng và Nguyễn Hà Phan không giấu tham vọng tranh chức tổng bí thư và thủ tướng nên Ðoàn Khuê nghĩ rằng ông ta có thể nhờ hậu thuẫn công an và quân đội để kế nhiệm địa vị chủ tịch nhà nước của Lê Ðức Anh, cho nên khi viếng thăm nước Pháp với tư cách Bộ Trưởng Quốc Phòng, và được Tổng Thống Chirac tiếp, Ðoàn Khuê huênh hoang nói với Chirac là sẽ tới thăm nước Pháp lần nữa với một tư cách ngang hàng (chủ tịch nhà nước) với Chirac. Do tác phong quan liêu, Ðoàn Khuê đã không được lòng thuộc cấp. Ngoài ra, tuy cùng ở trong phe quân đội và bảo thủ, Ðoàn Khuê lại rất bất mãn với Lê Khả Phiêu. Lý do là Lê Khả Phiêu từng là thuộc cấp của Ðoàn Khuê khi Ðoàn Khuê là Bộ Trưởng Quốc Phòng. Vì thế, khi Ðoàn Khuê ra tranh chức chủ tịch nhà nước, phe của Phiêu trong quân đội đã nhập vào phe Võ Văn Kiệt mà ủng hộ Trần Ðức Lương.

Người thay thế Võ Văn Kiệt là Phan Văn Khải, một người đã được Võ Văn Kiệt nâng đỡ để sửa soạn vào chức thủ tướng. Sự đề cử Phan Văn Khải vào chức thủ tướng đã làm yên lòng các nhà đầu tư ngoại quốc, cho thấy đảng Cộng sản Việt Nam vẫn muốn tiếp tục đường lối kinh tế cởi mở cũ. Phụ tá của Phan Văn Khải có những phó thủ tướng:

– Nguyễn Tấn Dũng đặc trách kinh tế và nội an. Sinh ở Cà Mau, xuất thân là lính quân y (trong lý lịch khai là đã được huấn luyện thành bác sĩ giải phẫu). Sau khi làm chính ủy đại đội quân y chuyển sang làm chính ủy tiểu đoàn rồi trung đoàn, từng phục vụ ở Căm Pu Chia. Năm 1994 làm bí thư tỉnh Kiên Giang, năm sau thăng thứ trưởng Bộ Nội Vụ.

– Nguyễn Mạnh Cầm phụ trách đối ngoại

– Nguyễn Công Tấn: quê ở Thái Bình, đặc trách phát triển nông thôn. Nguyễn Công Tấn tốt nghiệp kỹ sư canh nông tại đại học Hoa Nam năm 1958.

– Ngô Xuân Lộc đặc trách kỹ nghệ và phát triển thành thị (sau đó cũng bị mất chức vì bị phe Lê Ðức Anh tố cáo tham nhũng trong việc xây cất công viên tại Hà Nội)

– Phạm Gia Khiêm, đặc trách giáo dục, khoa học. Phạm Gia Khiêm sinh năm 1944 ở Hà Nội, từng du học ở Nga và Tiệp Khắc. Vào đảng năm 1969, từng dạy đại học Bắc Thái, trưởng khoa Giáo Dục Khoa Học trong Ủy Ban Kế Hoạch Nhà Nước, sau đó lên làm phó chủ tịch ủy ban.

Các bộ trưởng chính gồm có:

– Thương mại: Trương Ðình Tuyển, từng là bí thư tỉnh Nghệ An

– Nông Nghiệp: Lê Huy Ngọ

– Giao Thông: Lê Ngọc Hoan

– Xây Dựng: Nguyễn Mạnh Kiểm

– Văn Hóa Thông Tin: Nguyễn Khoa Ðiềm, sinh quán tại Huế, tốt nghiệp Sư Phạm. Sau 1975, là chủ tịch hội Văn Hóa Bình Trị Thiên. Với tư cách này, Nguyễn Khoa Ðiềm đã cùng Trần Hoàn kết án Trịnh Công Sơn về tội đã gọi cuộc chiến Việt Nam là nội chiến và tội làm bài hát thương tiếc cựu đại tá không quân VNCH Lưu Kim Cương rồi đẩy anh đi cải tạo.

– Quốc Phòng: Ðoàn Khuê, sau đó là Phạm Văn Trà (trước đó là tư lệnh quân khu III quanh Hà Nội, thay Ðào Ðình Luyện làm tham mưu trưởng quân đội từ Tháng giêng năm 1996)

– Giáo Dục: Nguyễn Minh Hiền

– Tài Chánh: Nguyễn Sinh Hùng, sinh quán Nghệ An, từng du học ở Bulgary, họ hàng với Hồ chí Minh.

– Nội Vụ: Lê Minh Hương, sinh quán Hà Tĩnh, xuất thân từ ngành tình báo. Theo học trường An Ninh, từng làm cán bộ an ninh ở liên khu tư, rồi làm công tác gián điệp ở các tòa đại sứ Việt Nam tại Ấn Ðộ và Nhật. Sau đó thăng giám đốc Sở Tình Báo rồi thứ trưởng Bộ Nội Vụ.

– Tư Pháp: Nguyễn Ðình Lộc

– Hải Sản: Tạ Quang Ngọc: sinh quán Nghệ An.

– Kế Hoạch Và Ðầu Tư: Trần Xuân Giá, sinh quán ở Huế, từng là phó chủ tịch ủy ban vật giá, phó chủ tịch ủy ban Kế Hoạch Nhà Nước rồi thứ trưởng Bộ Kế Hoạch và Ðầu Tư

– Khoa Học, Kỹ Thuật và Môi Sinh: Chu Tuấn Nhã

– Y Tế: Ðỗ Nguyên Phương

– Lao Ðộng và Thương Binh Xã Hội: Trần Ðình Hoan, sau đó là Nguyễn Thị Hằng

– Văn Phòng Chính Phủ: Lại Văn Cừ, người tỉnh Vĩnh Phú.

– Chủ Tịch Ủy Ban Bảo Vệ và Săn Sóc Trẻ Em: Trần Thị Thanh Thanh

– Chủ Tịch Ủy Ban Kế Hoạch Gia Ðình: Trần Thị Trung Chiến.

– Chủ Tịch Ủy Ban Chống Lụt Lội và Phát Triển Sông Cửu Long: Nguyễn Cảnh Ðinh

– Chủ Tịch Ủy Ban Thể Thao: Hà Quang Dự

– Chủ Tịch Ủy Ban Sắc Tộc: Hoàng Ðức Nghi.

Tất cả những bộ trưởng, thứ trưởng hay chủ tịch ủy ban do Phan Văn Khải đề nghị đều được quốc hội chấp thuận, trừ Thống Ðốc Ngân Hàng Cao sĩ Kiêm, bị quốc hội loại vì sau 8 năm làm thống đốc, hệ thống ngân hàng vẫn còn quá yếu kém. Vị trí này bị bỏ trống cho tới 6 tháng sau, Phan Văn Khải mới đề cử Nguyễn Tấn Dũng, phó thủ tướng đặc trách kinh tế kiêm nhiệm chức vụ thống đốc. Nguyễn Tấn Dũng tuy không có kinh nghiệm về ngân hàng, nhưng được đề cử nhằm nâng cao uy thế chính trị của ngành này. Công việc điều hành hàng ngày được giao cho Lê Ðức Thúy, một chuyên viên từng du học ở Harvard trong hai năm 1991 và 1992. Cho tới hơn một năm sau, Lê Ðức Thúy mới được chính thức làm thống đốc.

Sau đại hội VIII, năm 1997 là một năm xảy ra nhiều biến cố đối với Việt Nam. Dù cho cơn khủng hoảng kinh tế tại các nước Á Châu như Thái Lan, Singapore, Ðại Hàn, Nhật Bản… phải nửa năm sau mới ảnh hưởng tới Việt Nam, nhưng kinh tế Việt Nam trong năm 1997 cũng đã có những dấu hiệu suy thoái. Ngoài cơn bão Linda gây cảnh bão lụt tại miền Nam và miền Trung khiến mức sản xuất lúa gạo bị giảm sút, một lý do khác là hệ thống ngân hàng của Việt Nam chưa vững mạnh khiến cho những công ty ngoại quốc phải ngần ngại khi đầu tư và cuối cùng, lý do quan trọng nhất là sự lãng phí và kém hiệu quả của những công ty quốc doanh. Từ năm 1997, số tiền ngoại quốc đầu tư tại Việt Nam mỗi ngày một giảm. Một số công ty ngoại quốc đã phải đóng cửa hoặc vì lỗ lã, hoặc do những trở ngại hành chánh hay tham nhũng.

Tuy thế, những phần tử bảo thủ vẫn muốn duy trì và phát triển những công ty này vì “định hướng xã hội chủ nghĩa” là niềm hy vọng duy nhất của họ để sẽ có một ngày, tất cả đều sẽ trở lại là kinh tế nhà nước, tất cả sẽ chỉ còn là những công ty quốc doanh. Cơn khủng hoảng kinh tế của các nước Ðông Nam Á như Thái Lan, Ðại Hàn, Nhật Bản… năm 1997 khiến cho họ nghĩ đường lối kinh tế chỉ huy là đúng đắn và càng làm cho họ cứng rắn hơn nữa để kềm hãm đà đổi mới. Những biện pháp đổi mới mấy năm trước đã làm đời sống người dân tương đối thoải mái hơn trước, nhưng so với những nước lân bang, người dân Việt Nam vẫn còn rất nghèo. Theo thống kê của Ngân Hàng Thế Giới, lợi tức bình quân hàng năm mỗi người dân Việt năm 1997 là 350 Mỹ kim, chỉ ngang với Bangladesh. Trong khi đó, lợi tức hàng năm của người dân Phi Luật Tân cao hơn gấp ba lần (1,000 Mỹ kim), Thái Lan cao hơn gấp 7 lần ( hơn 2,000 Mỹ kim). Dù có những biện pháp cới mở về nông nghiệp, lợi tức của nông dân vẫn thua xa người dân thành thị. Thống kê của Bộ Nông Nghiệp cho biết sau khi trừ hết chi phí, lợi tức trung bình của nông dân là dưới 100 Mỹ kim, trong khi lợi tức trung bình dân Hà Nội là 800 Mỹ kim, Sài gòn 1,000 Mỹ kim.

Trước hoàn cảnh đời sống khốn khó và bị chèn ép, tháng 5 năm 1997, nông dân tỉnh Thái Bình vùng lên biểu tình phản đối những cán bộ địa phương tham nhũng, đặt ra những thuế khóa vô lý (thuế đất, thuế thầy giáo…), trả tiền lúa gạo mà nông dân bán ra thật rẻ so với giá thị trường, chiếm hữu đất đai cho gia đình, bạn bè, lại ép nông dân phải xung phong lao động xã hội chủ nghĩa không công ít ra là 10 ngày trong năm. Việc đánh thuế vô lý đến nỗi tiền thuế thu được trong 3 năm từ 1994 đến 1997 của tỉnh Thái Bình bội thu hơn con số dự trù của trung ương đến 176 tỷ đồng (khoảng 16 triệu mỹ kim). Khởi xướng và đứng đầu những cuộc biểu tình phản đối ở Thái Bình đều là những cán bộ hoặc bộ đội về hưu, họ đã tổ chức biểu tình qui mô, cho người già và trẻ em đi trước, cựu cán bộ đi sau, sau đó mới là thanh niên. Suốt từ tháng 5 đến tháng 12, ký giả hoặc nhân viên những tổ chức thiện nguyện ngoại quốc đều bị cấm không được đến tỉnh Thái Bình. Mới đầu, những cuộc biểu tình còn ôn hòa, nông dân chỉ mong muốn được giảm thuế, nhưng vì chính quyền địa phương không chịu giải quyết nên đã trở nên bạo động. Một số nông dân và viên chức bị tử thương, nhất là ở huyện Quỳnh Phú. Công an và ủy ban hành chánh nhiều xã đã phải bỏ nhiệm sở chạy trốn. Những cuộc biểu tình này đã diễn ra trong nhiều tháng. Chính quyền trung ương ở Hà Nội phải đem 1,200 công an đặc biệt từ những nơi khác đến để ngăn chận không cho phong trào chống đối lan tràn. Ðồng thời, đảng cử Phạm Thế Duyệt, một ủy viên Bộ Chính Trị người tỉnh Thái Bình đến dàn xếp.

Chính quyền đã phải công nhận lầm lỗi, giải nhiệm một số viên chức địa phương, đưa ra một vài biện pháp xoa dịu. Nhưng mặt khác, họ cũng đã bắt một số người biểu tình đưa lên đài truyền hình ép phải thú nhận tội lỗi là đã có hành động “chống đối” lại đảng và nhà nước. Trong một bài báo đăng ở báo đảng, Bí Thư Tỉnh Ủy Thái Bình Nguyễn Xuân Lai tiếp tục coi những người đạo Công Giáo trong tỉnh là những phần tử khả nghi và kêu gọi đảng phải tăng cường cảnh giác.

Sau nhân dân tỉnh Thái Bình, đến tháng 11, 1997, đến lượt nhân dân tỉnh Ðồng Nai (Biên Hòa cũ). Tại vùng đất của dân Công Giáo, giáo dân biểu tình phản đối những cán bộ địa phương đã ngang nhiên truất hữu đất đai nhà thờ. Tuy nhân dân tỉnh Ðồng Nai không được xếp hạng là thành phần tốt đối với chính quyền, nhưng họ đã biểu tình ngay trên quốc lộ 1, ngăn chặn con đường lưu thông huyết mạch Bắc Nam và đã chọn thời gian biểu tình vào lúc có một hội nghị quốc tế gồm những nước biết nói tiếng Pháp tổ chức ở Hà Nội để gây tiếng vang. Như thường lệ, chính quyền phong tỏa tỉnh Ðồng Nai, cấm người ngoại quốc lai vãng và trên báo chí quốc nội, không một báo nào được phép đăng tin. Phạm Thế Duyệt lại đóng vai trò dàn xếp và chính quyền lại hứa hẹn sửa sai. Một thời gian sau, bộ trưởng phát triển nông thôn là Nguyễn Công Tấn bị mất chức.

Hiển nhiên là những phản kháng của nông dân đã gây chấn động trong hàng ngũ lãnh đạo. Vào tháng 8, Bộ Nông Nghiệp loan báo ban hành “mười chính sách lớn” cho nông thôn, gồm có tu sửa, cải thiện hệ thống đường sá, giảm thế khóa cho nông dân và thiết lập một qui chế sở hữu đất đai rõ ràng, không cho cán bộ lạm dụng. Ngày 21-11-1997, Thủ Tướng Phan Văn Khải trong diễn văn đọc trước quốc hội cũng nhấn mạnh đến chương trình cải tạo nông thôn, còn Tổng Bí Thư Ðỗ Mười trước khi từ chức, cũng kêu gọi phải diệt trừ tham nhũng trong hàng ngũ đảng viên.

Tuy nhiên, vấn đề diệt trừ tham nhũng trong nội bộ đảng kể trên chỉ được thi hành theo những ý hướng và mục tiêu chính trị. Dù báo chí đã được Hữu Thọ, trưởng Ban Tư Tưởng Văn Hóa của Ðảng cho là “tiếng nói của đảng, của nhà nước, của những tổ chức xã hội và là diễn đàn của nhân dân” (ngày 25-8-97), nhưng chỉ hai tháng sau, ký giả Nguyễn Hoàng Linh, tổng biên tập báo Doanh Nghiệp bị bắt vì đăng bài phanh phui những gian lận liên quan đến việc mua 4 tàu tuần cho Cục Thuế Quan. Tòa soạn những báo Hà Nội Mới, Tiền Phong, Thương Mại Pháp Luật cũng bị tra xét vì bị nghi ngờ với cùng một tội là “tiết lộ bí mật quốc gia.” Cũng trong tháng đó, một phóng viên hãng Reuter bị hành hung và bị bắt về Bộ Nội Vụ tra hỏi khi anh ta chụp hình một toán phụ nữ biểu tình ở công viên Ba Ðình. Tháng 12, 1997, nhà văn Phạm Văn Viêm bị công an Việt Nam bắt cóc ở Bulgary và mang về Hà Nội sau khi anh dịch cuốn “Chế Ðộ Phát Xít” (The Fascist Regime) của Tổng Thống Zhelev, vị tổng thống Bulgary không Cộng Sản đầu tiên của Bulgary. Anh bị giam và lúc sau này không nghe tin tức. Những học giả, nhà thơ, nhà văn như Bùi Minh Quốc, Tiêu Dao Bảo Cự, Hà Sĩ Phu cũng bị làm khó dễ và theo dõi. Trong thời kỳ tiền hội nghị của những quốc gia nói tiếng Pháp tại Hà Nội tháng 11-1997, khi Liên Ðoàn Phóng Viên và Ký Giả thảo một thông tư trong đó có đoạn lên án sự đàn áp báo chí tại 16 trong 49 quốc gia tham dự. Tuy thông tư này không chỉ đích danh một nước nào, nhưng Phan Bằng, chủ tịch hội Phóng Viên Việt Nam của nhà nước đã cực lực phản đối vì Việt Nam coi đó là chuyện “can thiệp vào nội bộ quốc gia”

Cuối năm 1997, do quyết định từ Ðại Hội Ðảng hơn một năm trước, Ðỗ Mười bị bó buộc phải từ chức và Lê Khả Phiêu được đề cử làm Tổng bí thư. Trong tình trạng tranh chấp giữa bộ ba cầm quyền năm trước, Lê Khả Phiêu dần dần đã được lợi thế. Ðối thủ sáng giá duy nhất trong Bộ Chính Trị của Lê Khả Phiêu là Nguyễn Văn An, trưởng Ban Tổ Chức Ðảng, nhưng Lê Khả Phiêu có nhiều điều kiện thuận lợi hơn là được ở trong Ban Thường Vụ Bộ Chính Trị, lại là trưởng Ban Bảo Vệ Chính Trị của Ðảng. Cả đời là chính ủy, không có cơ hôi làm giàu, đời tư Lê Khả Phiêu trong sạch hơn Nguyễn Văn An. Ngoài ra, vụ rối loạn ở Thái Bình khiến Trung Ương Ðảng muốn có một người lãnh đạo cứng rắn.

Tuy nhiên, dù được lên làm tổng bí thư, Lê Khả Phiêu đã không có một hậu thuẫn chính trị vững mạnh nên đã phải đu dây giữa hai phe bảo thủ và cấp tiến, tuy ông ta đã dựa vào phe bảo thủ nhiều hơn. Nhưng ngay trong đảng và trong phe bảo thủ, Ðỗ Mười lại có nhiều uy tín và ảnh hưởng hơn Lê Khả Phiêu. Là một trong ba “cố vấn,” dù đã về hưu nhưng Ðỗ Mười vẫn có quyền tham dự những buổi họp của Bộ Chính Trị và Lê Khả Phiêu sở dĩ được lựa chọn cũng nhờ ảnh hưởng của Ðỗ Mười. Vì thế, trong bộ ba cố vấn, Ðỗ Mười xem thường Lê Khả Phiêu nhất. Trong những buổi họp của Bộ Chính Trị, ông ta hay xen vào những cuộc thảo luận, nhiều khi lấn át cả Lê Khả Phiêu khiến mọi người đều nhận thấy Lê Khả Phiêu là một tổng bí thư yếu thế. Quân đội cũng không hết lòng ủng hộ Lê Khả Phiêu. Bản chất là một chính ủy, Lê Khả Phiêu tìm hậu thuẫn với phe bảo thủ bằng cách đề cao khẩu hiệu chống đế quốc và phát huy xã hội chủ nghĩa, thể hiện qua biện pháp lấy lòng Trung Hoa, dù cho phải chịu khuất phục và nhượng bộ đất đai. Sau khi lên nhận chức tổng bí thư, tháng 2 năm 1999, Lê Khả Phiêu sang Trung Hoa và gặp đủ mặt giới lãnh đạo Trung Hoa. Từ đó, mối quan hệ Việt Hoa trở nên ngày càng thân thiết. Trong năm 1999, nhiều phái đoàn của hai nước lần lượt qua lại, kể cả Phạm thế Duyệt, Nguyễn tấn Dũng cho đến những cấp thấp hơn như Hoàng Kỳ, tư lệnh quân khu III…

Ngày 26-9-1999, nhân lễ kỷ niệm 50 năm thành lập đảng Cộng Sản Trung Hoa, 2500 cán bộ từng sống hay du học ở Trung Hoa tập họp ở sân vận động để chúc mừng, trong đó có Hoàng Minh Thảo. Ðầu tháng 12 năm 1999, Thủ Tướng Chu Ðông Cơ của Trung Hoa sang thăm Việt Nam, dự định sẽ tham dự buổi lễ ký kết thỏa hiệp về biên giới trên bộ, nhưng dự thảo thỏa ước có một số chi tiết chưa được thỏa thuận nên phải chờ đến cuối tháng, ngày 30-12- 1999, thỏa ước mới được ngoại trưởng hai nước là Nguyễn Mạnh Cầm và Ðường Gia Truyền ký kết. Thỏa ước này được hoàn tất là nhờ những nhượng bộ của Lê Khả Phiêu, từng hứa hẹn với Giang Trạch Dân là sẽ giải quyết vấn đề biên giới trên bộ xong trước năm 2000 và trên biển trước năm 2001.

Ngoài ra, để thúc đẩy Trung Hoa chịu đứng ra lãnh đạo phục hồi lại phong trào Cộng sản, thắt chặt thêm tình đoàn kết xã hội chủ nghĩa, Lê Khả Phiêu đề nghị hai nước hợp tác để mỗi năm, có một buổi hội thảo về ý thức hệ giữa những lý thuyết gia để nghiên cứu lại chủ nghĩa Mác nhằm biện luận cho kinh tế thị trường. Nguyễn Ðức Bình, ủy viên Bộ Chính Trị kiêm giám đốc trường đảng cầm đầu phái đoàn sang Bắc Kinh dự cuộc hội thảo đầu tiên vào tháng 6 năm 2000. Mấy tháng sau, một cuộc hội thảo về lý thuyết khác lại được tổ chức tại Hà Nội. Cầm đầu phái đoàn Trung Hoa là Lý Tiểu Anh, ủy viên Bộ Chính Trị Trung Hoa kiêm giám đốc Học Viện Khoa Học Xã Hội. Sau Nguyễn Ðức Bình là Nguyễn Minh Triết, Lê Minh Hương cũng sang Trung Hoa để học tập kinh nghiệm của Trung Hoa. Ðể trấn an Trung Hoa trước khi Bộ Trưởng Quốc Phòng Cohen, Ngoại Trưởng Albright, và Tổng Thống Clinton sang thăm Việt Nam, trong năm 2000, ngoài Lê Khả Phiêu, Nguyễn Ðức Bình, còn có Nông Ðức Mạnh, Phan Văn Khải, Trần Ðức Lương, Nguyễn Dy Niên và Phạm Văn Trà lần lượt qua thăm Bắc Kinh. Từ đó, hầu như cấp nào (từ trung ương đến tỉnh), ngành nào, thuộc đảng hay nhà nước, cũng đều có gắn bó trực tiếp với mọi cấp, mọi ngành của Trung Hoa.

Trung Hoa, vì quyền lợi quốc gia của họ, đã không tha thiết lắm với một liên minh ý thức hệ với Việt Nam, nhưng đã rất bằng lòng với thái độ của Lê Khả Phiêu. Do đó mà quan hệ Việt-Hoa đã thân thiết hơn trước. Sự thân thiết này trở nên dễ dàng hơn sau cái chết của Ðặng Tiểu Bình năm 1997. Do “bài học” năm 1979 đã được không thành công như ý muốn cho nên Ðặng Tiểu Bình vẫn còn cay đắng, đã không nhiệt tình ủng hộ việc kết thân với Việt Nam. Ngoài ra, trong trận chiến Việt Hoa năm 1979, Cộng Sản Việt Nam còn chế giễu cả đến vóc dáng của ông ta bằng câu nói trong những buổi học tập: “Chính trị Trung Quốc không cao hơn Ðặng Tiểu Bình.” Dù Ðặng Tiểu Bình đã chính thức về hưu năm 1989, nhưng uy tín của ông ta vẫn còn rất lớn. Năm 1992, khi thấy đà đổi mới kinh tế của Trung Hoa bị kiềm hãm bởi Giang Trạch Dân và Lý Bằng, ông đã đi một vòng vùng Hoa Nam để dùng uy tín cá nhân phát động một đợt đổi mới thứ hai cho Trung Hoa. Chỉ sau khi Ðặng Tiểu Bình chết, Giang Trạch Dân và Lý Bằng mới dám tỏ ra thân thiết hơn với Việt Nam và đã tặng cho Lê Khả Phiêu mười sáu chữ “láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng về tương lai” được Cộng sản Việt Nam gọi là “mười sáu chữ vàng,” làm căn bản cho quan hệ giữa hai nước.

Cái chết của Ðặng Tiểu Bình vào ngày 19-2-1997 cũng là lúc mà Nguyễn Tấn Dũng, lúc đó là ủy viên Ban Thường Vụ Bộ Chính Trị đang thăm viếng Trung Hoa. Dũng được gặp Giang Trạch Dân và cả hai đều hứa sẽ phát triển thêm mối bang giao. Tuy nhiên, điện văn phân ưu của chính phủ Việt Nam về cái chết của Ðặng Tiểu Bình đã không được nồng nhiệt lắm, khác hẳn với điện văn phân ưu gửi đảng Cộng Sản Ai Lao về cái chết của Phomvihane (năm 1992).

Trước chủ trương nghiêng về Trung Hoa của Lê Khả Phiêu, về ngoại giao, phe đổi mới trong chính phủ đã cố gắng quân bình lại bằng cách trao đổi đại sứ với Hoa Kỳ và xúc tiến việc hoàn tất thỏa hiệp thương mại song phương (BTA – bilateral trade agreement). Năm 1997 đã là năm đầu tiên sau 1975 mà Hoa Kỳ có đại sứ ở Việt Nam và lần đầu tiên, Ngoại Trưởng Hoa Kỳ Madelein Albright thăm viếng Hà Nội. Trong cuộc thăm viếng này, Ngoại Trưởng Albright ca ngợi thành quả đổi mới của Việt Nam từ năm 1986, nhưng khuyến cáo Việt Nam nên phát động một phong trào “đổi mới đợt 2.” Có lẽ như để cảnh cáo hành động làm thân với Hoa Kỳ của Việt Nam, ngày 7-3-97, Trung Hoa đem dàn khoan dầu Kantan III và hai tàu thăm dò 206 và 208 đến vùng biển trong vịnh Bắc Việt mà Việt Nam đã xác nhận chủ quyền. Lần này, sau khi đơn phương phản đối không kết qủa, Việt Nam cầu cứu tới những nước ASEAN, gián tiếp cảnh cáo họ là “Nếu Trung Hoa có thể lấn áp Việt Nam, họ có thể làm như thế với các nước khác.”

Ðồng thời, trong thời gian đó, ngày 22-3-1997, tư lệnh những lực lượng Hoa Kỳ vùng Thái Bình Dương cũng viếng thăm Hà Nội. Nhờ thế, ngày 1-4-1997, Trung Hoa loan báo sẽ kéo dàn khoan về và ngỏ ý sẽ thương thuyết với Hà Nội. Hai tuần sau, trong một buổi họp giữa những nước ASEAN và Trung Hoa, sau khi các nước ASEAN mạnh mẽ phát biểu những quan tâm của họ, Trung Hoa đồng ý là sau này sẽ thảo luận về những tranh chấp lãnh hải. Dù đạt được thắng lợi ngoại giao, báo chí Việt Nam đã không dám đá động gì đến những tin này, sợ làm chạm tự ái của Trung Hoa. Trong thời gian tranh chấp này, khi Bộ Ngoại Giao Việt Nam đang phản đối, nhiều viên chức cao cấp Việt Nam vẫn tấp nập sang thăm Trung Hoa như Chu Văn Ry, Phó Ban Tổ Chức Ðảng, Lê Minh Hương, Bộ Trưởng Nội Vụ, Tướng Nguyễn Văn Ðộ, Chủ Nhiệm Tổng Cục Tiếp Vận…, coi như không có việc gì xảy ra. Vì thế, vào Tháng Tư năm sau, Trung Hoa tiếp tục lấn tới bằng cách đặt kế hoạch thành lập một trung tâm du lịch tại đảo Ðông Hưng, hòn đảo lớn nhất trên quần đảo Hoàng Sa, Việt Nam lại phản đối bằng miệng nhưng vô hiệu.

Ngoài những suy thoái kinh tế, năm 1997 cũng là năm bắt đầu có những vụ án tham nhũng nổi tiếng lọt ra ngoài ánh sáng. Ðầu tiên là vụ án nhà máy dệt Nam Ðịnh, 14 cán bộ bị tù vì gian lận khoảng 14 triệu Mỹ kim. Sau đó là Nguyễn Trung Trực của hãng Peregrine (được Bùi Thiện Ngộ, và có thể cả Trần Ðức Lương, đỡ đầu) bị phe Võ Văn Kiệt bắt về tội trốn thuế. Tiếp theo đến lượt hãng Tamexco, một hãng xuất nhập cảng của chính phủ. Giám đốc của hãng là Phạm Minh Phước đã biển thủ của hãng trên 50 triệu Mỹ kim. Người này đã từng đánh bài ăn thua hàng trăm ngàn Mỹ kim và tặng cho tình nhân những biệt thự đắt giá. Bản án cũng ghi nhận là có lần Phước cùng 87 cán bộ và nhân viên chính phủ cùng bay ra nước ngoài ăn chơi. Ra tòa, Phạm Minh Phước bị tử hình cùng bốn đồng bọn. Khoảng một năm sau, đến lượt công ty Minh Phụng. Ðó là một công ty tư nhân lớn, kinh doanh về nhiều mặt, từ dệt vải tơ lụa đến buôn bán địa ốc.

Công ty này cùng công ty quốc doanh Epco thành lập 47 công ty ma và thông đồng với một ngân hàng nhà nước để vay tiền sau đó quịt nợ. Vụ án có 77 bị can, số tiền thất thoát lên tới 280 triệu Mỹ kim. Tăng Minh Phụng, giám đốc các công ty Minh Phụng và Liên Khui Thin, giám đốc công ty Epco, cùng Phạm Nhật Hồng, phó giám đốc nhà băng Kỹ Nghệ và Thương Mại của nhà nước, đều bị tử hình. Những vụ buôn lậu dính líu đến những cơ quan nhà nước tràn lan đến nỗi Cục Trưởng Cục Thuế Quan Phan Văn Ðính cũng bị mất chức cùng với nhiều bị cáo phải ra tòa. Phùng Long Thất, trưởng toán điều tra thuộc ty Thuế Quan thành phố HCM cùng với Trần Ðoàn, chủ tịch công ty Tân Trường Sinh cũng bị xử bắn về tội thông đồng buôn lậu 900 thùng đồ điện tử và phụ tùng xe hơi. Ngoài tệ nạn tham nhũng kinh tế, cũng trong năm 1997, một số những sĩ quan công an cao cấp như Thượng Tá Công An Vũ Hữu Chính, Ðại Uy Công An Vũ Xuân Trường cùng 30 đồng bọn bị ở tù vì liên quan đến việc buôn bán thuốc phiện lậu từ Ai Lao. Ðến năm 1998, đến lượt Tổng Giám Ðốc Việt Nam Hàng Không Lê Ðức Từ bỏ trốn vì biển thủ trên 2 triệu Mỹ kim. Ngoài ra, tháng 9 năm 1996, khi 5 nhân viên cứu hỏa đến chữa cháy một căn nhà ở Sàigòn, năm người này đã mở một két sắt và lấy đi 47 lạng vàng. Công an điều tra sự việc và khi 47 lạng vàng được trả lại chủ nhân, lại lòi ra chủ nhân này là Nguyễn Kỳ Cẩm, chủ tịch ủy ban bài trừ tham nhũng cả nước. Vì không thể khai 47 lạng vàng này làm sao có được, Nguyễn Kỳ Cẩm bị mất chức. Tuy nhiên, vụ án nổi tiếng nhất là vụ án Trịnh Vĩnh Bình.

Trịnh Vĩnh Bình là một thương gia người Hòa Lan gốc Việt. Trong những năm đầu của thập niên 1990, Trịnh Vĩnh Bình mang khoảng 4 triệu Mỹ kim về nước làm ăn (mở công ty Tín Thành và Bình Châu bán đồ biển, xây khách sạn, đầu tư địa ốc…) ở Sài gòn và Vũng Tàu. Bị một người tên Trịnh Hiển Thanh tố cáo, Trịnh Vĩnh Bình bị bắt năm 1998 và bị tịch thu hết tài sản. Sau 18 tháng bị giam, Trịnh Vĩnh Bình ra tòa và bị kết án 11 năm tù (3 năm về tội vi phạm luật nhà đất, 8 năm về tội hối lộ), bị phạt 480 lạng vàng, 6.2 tỷ đồng, ngoài ra còn bị tịch thu toàn bộ gia sản. Tuy nhiên, Trịnh Vĩnh Bình là một người từng hoạt động chính trị tích cực ở Hòa Lan cho nên trong thời gian ông ta bị giam giữ, chính phủ Hòa Lan đã phản ứng mạnh mẽ. Dù cho Phan Văn Khải đã can thiệp, Trịnh Hiển Thanh nhận là đã tố cáo láo và đảng ủy Vũng Tàu cũng công nhận là xử án sai, nhưng khi Bộ Chính Trị họp, Lê Khả Phiêu, Lê Minh Hương, Trần Ðình Hoan và Phạm Thế Duyệt… nhất định tiếp tục đưa Trịnh Vĩnh Bình ra tòa và qui án.

Chuyện rủi ro cho đảng Cộng Sản Việt Nam là trong khi giải Trịnh Vĩnh Bình từ Sàigòn ra Hà Nội, không hiểu bằng cách nào (có thể do hối lộ hay do được một phe cánh nào đó thả ra ), Trịnh Vĩnh Bình đã có thể trốn thoát ở phi trường Tân sơn Nhất và trở về Hòa Lan. Ông ta đưa đơn kiện chính phủ Việt Nam đã vi phạm điều 9 của thỏa hiệp song phương mà Việt Nam đã ký với Hòa Lan, đòi bồi thường 100 triệu Mỹ kim. Tòa án quốc tế đã nhận đơn kiện và sẽ xét xử. Theo một người thành thạo tin đang sống trong nước, (người này dĩ nhiên phải lấy tên giả và ông ta đã lấy tên giả là Trần Quốc Hoàn, tên của một bộ trưởng công an nổi tiếng nhất nay đã chết), Trịnh Vĩnh Bình bị một trung tá công an Vũng Tàu là Ngô Chí Ðan, một đàn em của Nguyễn Khánh Toàn, Thứ Trưởng Công An, kiếm chuyện để tịch thu tài sản. Chính Nguyễn Khánh Toàn đã thúc đẩy Trần Ðình Hoan bắt và tiếp tục xử Trịnh Vĩnh Bình về tội gián điệp. Công an đưa ra chứng cớ là Trịnh Vĩnh Bình đã từng gặp mặt Phan Văn Khải, Nguyễn Trọng Minh (chủ tịch ủy ban nhân dân Vũng Tàu) để lôi kéo, mua chuộc. Nguyễn Trọng Minh do đó mà bị mất chức, Phan Văn Khải thì nghe nói liên quan đến gián điệp nên không dám can thiệp tiếp. Ngô Chí Ðan sau này cũng bị mất chức vì liên quan đến một vụ án khác, vụ án “Phương Vicarrent” năm 2003.

Do vụ Trịnh vĩnh Bình, những giới chức lãnh đạo Việt Nam từ Trần Ðức Lương, Phan Văn Khải, Nguyễn Văn An, Nguyễn Di Niên mỗi khi qua thăm Hòa Lan đều bị tiếp đón rất lạnh nhạt.

Vì tệ nạn tham nhũng trong hàng ngũ đảng viên tràn lan, tất cả những lãnh tụ của đảng đều lên tiếng đòi bài trừ tham nhũng. Phan Văn Khải ra chỉ thị bắt những viên chức chính phủ phải kê khai những tài sản trị giá trên 50 triệu đồng (khoảng hơn 4,000 Mỹ kim), nhưng lại không bắt họ phải khai nguồn lợi đó từ đâu tới. Ðào Duy Quát, Phó Ban Tư Tưởng Văn Hóa Ðảng, đòi tăng thêm quyền hạn cho những cơ quan điều tra của đảng và chính phủ, còn Tổng Bí Thư Lê Khả Phiêu phát động hai đợt bài trừ tham nhũng và cuối cùng, cả đến Phạm Thế Duyệt, Ủy Viên Bộ Chính Trị, cũng nói là đảng chưa kiểm soát cán bộ nghiêm nhặt lắm. Phạm Thế Duyệt cũng là người trong năm 1998 bị 11 cán bộ và bộ đội hồi hưu tố cáo lợi dụng quyền thế khi làm bí thư thành ủy Hà Nội để chiếm đoạt đất đai nhà cửa của nhân dân một cách trái phép.

*

Bản tố cáo (được gọi là “tâm thư “ gửi tới Trung Ương Ðảng vào tháng 8 năm 1998 ) chỉ đích danh Phạm Thế Duyệt chiếm những nhà của Công đoàn ở phường Trùng Tu, nhà số 64 phố Hàng Bông Nhuộm (sát bên nhà mà bà Nông Thị Xuân trước kia đã ở), nhà số 26 Trại Gang, nhà hai tầng gần hồ Bảy Mẫu. Cùng bị tố với Phạm Thế Duyệt là Ðinh Hạnh, ủy viên Ban Thường Vụ Thành Uy Hà Nội, phó chủ tịch Ủy Ban Nhân Dân Thành phố. Vì lá thư không thể phổ biến công khai, nhưng đã được sao chép và bí mật phổ biến rộng rãi. Những người viết thư đã không ngần ngại ghi rõ tên tuổi, địa chỉ, chẳng hạn như ông Ðoàn Nhân Ðạo, cán bộ 48 tuổi đảng, nhà ở 37 Hàng Buồm, bà Ðặng Thị Xuân Tiên, 51 tuổi đảng ở số 27 Nghĩa Ðô, Cầu Giấy…

Tuy nhiên, Phạm Thế Duyệt nhờ được hậu thuẫn mạnh mẽ của Ðỗ Mười nên không thấy bị một biện pháp kỷ luật nào mà còn tiếp tục ngồi trong Bộ Chính Trị rồi Mặt Trận Tổ Quốc nhiều năm sau. Ngoài ra, Phạm Thế Duyệt còn được Bộ Chính Trị giao trách nhiệm đả kích và bôi nhọ Tướng Trần Ðộ (kể cả thủ đoạn dùng công an gài bẫy, cho người rình sẵn, hẹn Trần Ðộ tới một nơi rồi cho một cô gái cới quần áo đến ôm chầm lấy ông cho công an chụp hình). Trần Ðộ cuối cùng bị Ðảng tuyên bố trục xuất khỏi Ðảng vào năm 1999. Vào ngày 15-4-1998, vì bị cán bộ tỉnh Hà Tây hà hiếp không có chỗ kêu oan, ông Nguyễn Văn Kinh chế xăng tự thiêu tại công trường Ba Ðình trước lăng Hồ Chí Minh. Ông được cứu sống và Bộ Ngoại Giao ngày 21-4-98 đổ tội là ông bị bệnh thần kinh.

Ít lâu sau, đến lượt Phó Thủ Tướng Ðặc Trách Xây Dựng Ngô Xuân Lộc bị mất chức phó thủ tướng vì bị nghi là thông đồng với Lê Tất Cương gian lận tiền mua xi măng và lem nhem trong công trình xây dựng công viên Thủy Cung Thăng Long. Sự cách chức và bắt giữ Ngô Xuân Lộc cũng có thể là do tranh chấp giữa phe của Lê Ðức Anh và phe chính phủ của Phan Văn Khải, vì chính trợ lý của Lê Ðức Anh là Nguyễn Bắc Son đã điều động báo chí tấn công Ngô Xuân Lộc. Mấy tháng sau, do Ðỗ Mười can thiệp, Ngô Xuân Lộc được minh oan và lại được Phan Văn Khải chỉ định làm cố vấn đặc biệt về kỹ nghệ, xây dựng và giao thông. Chính Ðỗ Mười cũng phải lên tiếng cải chính là ông ta không hề nhận rượu vang của một tổ hợp công ty Ðại Hàn (nhiều tin đồn nói là Ðỗ Mười nhận hối lộ của tổ hợp này một triệu Mỹ kim).

Ngô Xuân Lộc bị bắt là do tố cáo của Tổng Cục 2, và người cho tài liệu để tố cáo là Nguyễn Thái Nguyên, một viên chức trong văn phòng thủ tướng của Phan Văn Khải đã được Tổng Cục 2 chiêu dụ để nằm vùng. Ðể trả đũa lại Tổng Cục 2, phe chính phủ cho Bộ Nội Vụ bắt và kết tội Nguyễn Thái Nguyên là đã cùng Tổng Cục 2 vu cáo Võ Thị Thắng, tổng giám đốc tổng Nha Du Lịch. Tổng Cục 2 đã từng tố cáo là trong khi ở tù Côn đảo, Võ Thị Thắng đã làm chỉ điểm cho công an VNCH. Trong vụ này, ngoài Nguyễn Thái Nguyên, Tổng Cục 2 còn dùng một nhân viên nằm vùng khác trong công ty du lịch là Nguyễn Thị Thanh Hiền.

Giữa năm 1998, cơn khủng hoảng kinh tế Á Châu trong năm 1997 mới ảnh hưởng tới Việt Nam vì phần lớn (60%) hàng xuất cảng của Việt Nam là để bán cho những nước lân bang và những nước đầu tư nhiều nhất ở Việt Nam như Ðại Hàn, Singapore, Thái Lan… đều gặp khó khăn. Hàng xuất cảng bị giảm đi một phần ba. Vốn ngoại quốc đầu tư giảm đi một phần tư so với năm trước. Nhân số thất nghiệp lên tới 20%. Trong cuộc họp hàng năm của Ngân Hàng Thế Giới và Quĩ Tiền Tệ Quốc Tế, Nguyễn Tấn Dũng đã phải lên tiếng yêu cầu Việt Nam được trợ giúp thêm. Tuy nhiên, vì thành phần bảo thủ chiếm đa số trong Trung Ương Ðảng và Bộ Chính Trị, cho nên ngoài việc tìm cách khuyến khích cách sử dụng vốn trong nước để đầu tư thay thế vốn nước ngoài, những buổi họp của Trung Ương Ðảng năm 1998 chú trọng nhiều hơn vào những vấn đề văn hóa hay ý thức hệ nhằm củng cố quyền lực của Ðảng mà không đưa ra một biện pháp cải thiện kinh tế nào khác. Tiếp theo đó là hội nghị Trung Ương Ðảng lần thứ sáu đầu năm 1999 cũng chỉ chú trọng đến việc kiện toàn bộ máy Ðảng hay chính phủ, hoặc đề ra chiến dịch “phê và tự phê” trong ba năm để thanh lọc hàng ngũ.

Ngoài ra, cuối năm 1998, Phân Bộ Kinh Tế, thuộc Tổng Cục Kinh Tế và Kỹ Nghệ Quốc Phòng được nâng cấp lên thành một Cục Kinh Tế, đặt dưới sự kiểm soát của Bộ Quốc Phòng. Kể từ đó, hầu như không có một ngành kinh tế nào mà quân đội không nhúng tay vào đầu tư, và hầu như ngành nào của quân đội cũng có riêng một cơ quan làm ăn buôn bán, đáng kể nhất là cục quân báo, lúc sau này được nâng lên thành Tổng Cục 2, có quyền theo dõi, bắt bớ, điều tra những việc không những chỉ liên quan đến quân sự mà còn về chính trị, kinh tế. Vào giữa năm 1998, quân đội Việt Nam bị tổn thất khi một máy bay quân sự Yak -40 do Liên Xô chế tạo bị rớt bên Lào, có 26 người tử nạn, trong đó có các Tướng Ðào Trọng Lịch, Tham Mưu Trưởng Quân Ðội, Trần Tất Thành, Tư Lệnh Quân Khu II, Trần Minh Thiết, Tư Lệnh Phó Quân Khu V cùng với các Tướng Phạm Minh Thành, Vũ Xuân Thủy và một số sĩ quan cao cấp Ai Lao (7 năm sau, 2005, một máy bay trực thăng MI 8 cũng do Nga Xô chế tạo đâm vào núi ở Nghệ An, gây thương vong cho tất cả những tướng lãnh chỉ huy quân khu IV, trong đó có Trung Tướng Tư Lệnh Trương Ðình Thanh, Tư Lệnh Phó Nguyễn Bá Tuấn, Chủ Nhiệm Chính Trị Lê Hữu Phúc và nhiều sĩ quan cao cấp khác).

Sau khi Ðào Trọng Lịch chết, Lê Văn Dũng, người tỉnh Bến Tre, lúc đó đang là thiếu tướng tư lệnh quân khu VII ở miền Nam được gọi về Hà Nội thay. Cũng như Phạm Văn Trà , sự lên chức nhanh chóng của Lê Văn Dũng là do sự đỡ đầu và cất nhắc của Lê Khả Phiêu và Lê Ðức Anh. Những người này đã biết nhau trong thời gian phục vụ ở miền Nam và Căm Pu Chia. Vì lý do đó, cùng với Phạm Văn Trà , Lê Văn Dũng đã hết lòng phục vụ cho Lê Ðức Anh.

Sự hiện diện của một phái đoàn tướng lãnh tư lệnh những quân khu giáp ranh với Ai Lao trên chuyến máy bay bị tử nạn kể trên cho thấy Việt Nam vẫn còn có những hoạt động quân sự ở Ai Lao. Dù Bộ Ngoại Giao Việt Nam cực lực chối bỏ, nguồn tin ngoại giao ở Ai Lao cho biết vào tháng 5 năm 2000, quân Việt Nam đã phải can thiệp để giúp đỡ quân Ai Lao đánh dẹp một số quân khởi loạn người Hmong trong tỉnh Xieng Khoang và trong tháng 6, báo chí Hà Nội đã đăng tin Tướng Nguyễn Khắc Dương, tư lệnh quân khu IV đã cùng Ðại Tá Sayphoubanh của Ai Lao đặt viên đá đầu tiên xây dựng một quân y viện tại tỉnh này. Cũng tại Ai Lao, hai tháng sau, một trái bom nhỏ gài sát tường tòa đại sứ Việt Nam được gỡ ngòi nổ. Những nguồn tin ngoại giao tin rằng đó không phải do nhóm chống đối người Hmong mà là do một nhóm thân Trung Hoa trong Ðảng Cộng Sản Ai Lao, vì dù đã có sự hòa hoãn Việt Hoa, Trung Hoa vẫn luôn tìm cách lấn át ảnh hưởng của Việt Nam tại Ai Lao và Căm Pu Chia. Ði trước Việt Nam, từ năm 1988, Ai Lao đã bắt đầu nối lại quan hệ ngoại giao với Trung Hoa. Ðể có thể thông thương với Thái Lan, Trung Hoa đã tích cực viện trợ cho Ai Lao, nhất là việc mở mang xa lộ theo hướng Bắc Nam từ Trung Hoa qua Vạn Tượng tới Thái Lan. Theo thống kê, từ 1988 đến 2001, Trung Hoa đã viện trợ cho Ai Lao khoảng 1.7 tỷ Mỹ kim. Khác với các nước Nhật, Tây Âu, Úc, Ngân Hàng Thế Giới đòi Ai Lao phải thi hành nhiều điều kiện như cải tổ hành chánh, chống thất thoát, cải thiện nhân quyền, Trung Hoa khi viện trợ gần như đã không đòi hỏi một điều kiện nào. Xét về ảnh hưởng đối với Ðảng Cộng Sản Ai Lao, so sánh với Trung Hoa, Việt Nam hiện nay vẫn chiếm uy thế nhưng điều này có thể bị xoay ngược lại trong tương lai.

Cuối năm 1999, nhằm nâng cao phẩm chất quân đội, quốc hội ra một đạo luật đòi hỏi những sĩ quan phải có trình độ đại học. Cấp trung đoàn trưởng trở lên phải có bằng cấp hậu đại học (không nhất thiết là văn hóa mà có thể là chính trị, lý luận… và có thể học “tại chức”). Các chức vụ được đề cử cũng phải theo thứ bậc, chẳng hạn phải là tư lệnh quân đoàn (chỉ huy khoảng 3 sư đoàn) trước khi là tư lệnh phó quân khu (chỉ huy lãnh thổ) để làm tư lệnh quân khu. Số tướng lãnh được giảm xuống giới hạn còn 150 người.

Do sự ưu thắng của phe quân đội và được Lê Khả Phiêu nâng đỡ, Tổng Cục Kinh Tế và Kỹ Nghệ của quân đội tiếp tục bành trướng. Năm 1998, Phạm Văn Trà ra lệnh cho những quân khu và những binh đoàn thiết lập nên những “khu kinh tế quốc phòng” và một năm sau, 13 khu đã được thành lập với số vốn khoảng trên 200 triệu Mỹ kim. Phần lớn những khu kinh tế này nằm dọc theo biên giới của Việt Nam với Trung Hoa, Lào và Căm Pu Chia. Tùy theo hoàn cảnh địa phương, mỗi khu kinh tế kinh doanh những ngành khác nhau. Chẳng hạn binh đoàn 15 đóng tại vùng Tây Nguyên đặt kế hoạch khai khẩn đất hoang, trồng trà, cà phê, nuôi gia súc…, công binh của binh đoàn lập đường sá, xây nhà cửa, trường học. Binh chủng hải quân lập xưởng sửa chữa tàu và để cho một số tàu tuần kiêm nhiệm thêm việc đánh cá. Khi Trung Hoa bị mất mùa, dù trái luật, tàu hải quân cũng đã chở lúa gạo từ miền đồng bằng Việt Nam sang bán cho Trung Hoa kiếm lời. Không quân có tổ hợp công ty hàng không lo việc chuyên chở hành khách thương mại (kể cả những toán chuyên viên đi tìm người Mỹ mất tích) và huấn luyện phi công. Quân y lập bệnh viện tư. Lực lượng biên phòng phá rừng, xây trường học và cung cấp giáo viên cho dân thiểu số. Học Viện Kỹ Thuật Quân Ðội cũng thành lập công ty điện toán Tecapro ký khế ước với hãng dầu Vietsovpetro cùng nhiều công ty ngoại quốc khác. Những tổ hợp công ty của quân đội thành công nhất là công ty Trường Sơn (binh đoàn 12), công ty Thanh An (binh đoàn 11), công ty Tây Nguyên (binh đoàn 15)… Ngay cả Tổng Cục 2 tình báo cũng có những công ty Vasuco, Toseco buôn bán vũ khí, khách sạn Hoàng Gia, công ty xây dựng Hồng Bàng. Cũng như những công ty quốc doanh, những công ty quân đội nếu bị lỗ lã, sẽ được ngân sách quốc gia tài trợ.

Sang đến năm 1999, kinh tế của Việt Nam tiếp tục xuống dốc. Ðầu tư của ngoại quốc xuống 4 tỷ Mỹ kim năm 1998 tới 1999 xuống còn có 1.48 tỷ. Các công ty ngoại quốc ở Việt Nam phần lớn bị lỗ. Nhưng lỗ nhiều nhất là những công ty quốc doanh. Khoảng hơn 2,000 trong hơn 6,000 công ty quốc doanh bị lỗ và dĩ nhiên chính phủ phải bù đắp. Ngân Hàng Thế Giới và Quĩ Tiền Tệ Quốc Tế ngưng không cho vay trừ khi Việt Nam áp dụng “một phương cách đổi mới toàn diện hơn,” trong đó có 3 mục tiêu:

1. hoặc tư nhân hóa, hoặc cải tổ lại những công ty quốc doanh;

2. cải tổ lại hệ thống ngân hàng, kể cả 4 ngân hàng chính của nhà nước;

3. cải tổ lại ngành thương nghiệp, mở rộng thị trường.

Tuy nhiên, khi phe đổi mới đề nghị với Trung Ương Ðảng những biện pháp kể trên, nhóm bảo thủ lại thấy đó chỉ là những âm mưu của tư bản nhằm bóc lột và thao túng kinh tế những nước nghèo. Theo họ, tư nhân hóa những công ty quốc doanh chỉ là một phương cách để giảm thiểu uy quyền của Ðảng và nhà nước, phá hoại định hướng xã hội chủ nghĩa, còn mở rộng thị trường để những công ty ngoại quốc cạnh tranh với giá thành rẻ hơn sẽ làm suy sụp những công ty quốc doanh, tạo ra nạn thất nghiệp và xáo trộn an ninh. Vì thế, khi dự thảo thỏa hiệp thương mại song phương (BTA-bilateral trade agreement) Việt Nam-Hoa Kỳ được hoàn tất, dù cho Lê Khả Phiêu ủng hộ thỏa ước vì nó giúp thuế khóa hàng hóa Việt Nam vào Hoa Kỳ giảm từ 40% xuống còn 3%, và tính ra Việt Nam sẽ được lợi khoảng 800 triệu Mỹ kim trong năm đầu tiên, nhưng việc ký kết đã bị phe bảo thủ trì hoãn lại. Bản dự thảo hiệp ước được thương thuyết từ năm 1997 và với sự đồng ý của Lê Khả Phiêu, việc ký kết được dự trù khi Phan Văn Khải sang Tân Tây Lan họp hội nghị kinh tế các nước ven Thái Bình Dương (APEC) và gặp Clinton ở đó vào tháng 9 năm 1999.

Vì khi ký thỏa hiệp BTA, một số những công ty quốc doanh, làm ăn thua lỗ, sẽ không còn có thể được trợ cấp, những Ðảng viên cao cấp có liên quan với những xí nghiệp quốc doanh đã vận động với Ðỗ Mười can thiệp để Lê Khả Phiêu trì hoãn lại. Ngoài ra, một lý do khác là lúc đó Trung Hoa cũng đang nghiên cứu ký một thỏa hiệp tương tự với Hoa Kỳ. Cảm thấy không thể đi trước nước đàn anh, Lê Khả Phiêu đã chỉ thị cho Bộ Ngoại Giao phải tuyên bố là Việt Nam vẫn chưa sẵn sàng. Một tháng sau, khi Hội Nghị Trung Ương Ðảng lần thứ tám họp để nghiên cứu lại, hội nghị đã kết luận là bản dự thảo này “không quân bình, cần nghiên cứu thêm.” Tháng sau, từ ngày 8 đến 15-10-1999, do lệnh của Ðỗ Mười và Lê Khả Phiêu, Phạm Thế Duyệt, một ủy viên Bộ Chính Trị, lên đường sang Trung Hoa tham khảo ý kiến về việc ký kết thỏa ước. Dù cho Trung Hoa đã khuyến cáo là Việt Nam nên thận trọng khi ký kết với Hoa Kỳ nhưng chỉ vài tuần lễ ngay sau đó, các cấp lãnh đạo Việt Nam đã rất ngỡ ngàng khi Trung Hoa nhanh chóng ký kết một thỏa ước tương tự với Hoa Kỳ, mở đường cho Trung Hoa gia nhập vào cộng đồng thương mại thế giới WTO vào đầu năm 2001, trong khi sự trì hoãn của Việt Nam một phần do khuyến cáo của Trung Hoa đã làm chậm đi việc gia nhập tổ chức này cho tới tháng 11 năm 2006. Một số công ty ngoại quốc dự định đầu tư ở Việt Nam thấy Trung Hoa đã ký BTA với Hoa Kỳ đã bỏ sang Trung Hoa làm ăn. Tác giả Templer chuyên về Việt Nam nhận xét: “Không phải Trung Hoa bảo họ không ký. Họ chỉ không muốn qua mặt Trung Hoa. Họ nghĩ là tốt hơn nên để Trung Hoa được gia nhập WTO trước.”

Thời gian chờ đợi ký kết thỏa ước càng kéo dài càng bất lợi cho Việt Nam. Nhưng chỉ sau khi nước đàn anh và cộng sản gương mẫu là Trung Hoa đã ký, những phần tử bảo thủ mới phải chấp nhận thực tế là họ cần có nguồn vốn đầu tư ngoại quốc, cần phát triển xuất khẩu mới có hy vọng đạt được mục tiêu biến Việt Nam thành một nước công nghiệp và hiện đại vào năm 2020. Tám tháng sau, Hội Nghị Trung Ương Ðảng lần thứ mười mới công nhận là Việt Nam không còn cách nào khác là hòa nhập vào kinh tế trong vùng và kinh tế thế giới, nhất là với Hoa Kỳ. Vũ Khoan được cử sang Hoa Thịnh Ðốn để ký thỏa ước thương mại song phương BTA với Hoa Kỳ vào ngày 13-7-2000, nhưng việc gia nhập vào Tổ Chức Thương Mại Thế Giới WTO của Việt Nam cũng đã phải chờ đến cuối năm 2006 mới xong, sau Trung Hoa đến hơn năm năm. Sau hiệp ước song phương, sự cải thiện bang giao giữa hai nước Việt Mỹ được thể hiện qua việc 3 chiếc phi cơ C130 của Hoa Kỳ đáp xuống phi trường Tân Sơn Nhất vào tháng 10 năm 2000 sau 25 năm vắng bóng để chờ đồ cứu trợ cho những nạn nhân của một cơn bão lớn vừa gây chết chóc và tàn phá tại những tỉnh duyên hải miền Trung và miền Nam.

Sự chần chừ thay đổi ý kiến của Lê Khả Phiêu đã làm nản lòng phe đổi mới, trong khi mấy tháng sau Lê Khả Phiêu vẫn lại chấp thuận cho ký kết thỏa ước cũng đã làm cho phe bảo thủ bất bình. Ðiều này xảy ra là do thái độ của Lê Khả Phiêu đối với Trung Hoa. Mới đầu Lê Khả Phiêu thay đổi ý kiến không dám ký thỏa ước với Hoa Kỳ là vì cùng với Ðỗ Mười, Lê Khả Phiêu sợ làm mất lòng Trung Hoa. Lúc sau, sau khi Trung Hoa đã ký thì Lê Khả Phiêu mới mạnh dạn hùa theo phe đổi mới. Ðó là một trong những lý do khiến Lê Khả Phiêu đã bị mất chức trong khi chỉ được làm Tổng bí thư mới hơn ba năm.

Trong khi khả năng lãnh đạo của Lê Khả Phiêu, dù xuất thân là một tướng lãnh, được coi là yếu kém, ưu điểm duy nhất của Phiêu là cuộc sống bình dị và gia đình không bị tai tiếng. Tiếng xấu duy nhất của đời tư Lê Khả Phiêu là có tin đồn Lê Khả Phiêu bị trúng phải mỹ nhân kế của Trung Hoa, khiến cho thời gian Lê Khả Phiêu cầm quyền là thời gian Việt Nam nhượng bộ Trung Hoa nhiều nhất, kể cả phải nhượng bộ đất đai trong tranh chấp về biên giới. Tuy tin đồn không được kiểm chứng, nhưng thái độ qui phục Trung Hoa của Lê Khả Phiêu đã được thể hiện rõ ràng. Sau khi Lê Khả Phiêu, với tư cách tổng bí thư, sang thăm Trung Hoa vào tháng 2 năm 1999, phái đoàn thương thuyết của Việt Nam đã bị áp lực để hoàn tất thỏa ước về biên giới Việt Hoa trên đất liền trước năm 2000 và thỏa ước này đã được ký kết tại Hà Nội vào cuối năm 1999 giữa Nguyễn Mạnh Cầm và Ðường Gia Truyền (Tang Jiaxuan). Thỏa ước là một thắng lợi ngoại giao lớn cho Trung Hoa, vì ngoài việc được Việt Nam nhượng bộ về đất đai, trong tháng trước, trong hội nghị thượng đỉnh các quốc gia ASEAN ở Manila, Trung Hoa đã từ chối không chịu ký vào bản đề nghị “qui tắc hành sử” (code of conduct) trong những tranh chấp biên giới dù trên bộ hay trên biển. Ðạt được thỏa hiệp với Việt Nam, Trung Hoa đã chứng tỏ là họ có thể giải quyết riêng với từng quốc gia theo cách “chia để trị” của họ. Cũng theo cách này, do chủ trương của Lê Khả Phiêu, Việt Nam cũng sẽ đi lẻ với Trung Hoa mà giải quyết ranh giới trên biển vào năm sau. Trong chuyến đi thăm Trung Hoa lần này, ngoài việc gặp Giang Trạch Dân, tổng bí thư, Lý Bằng, chủ tịch quốc hội, Hồ Cẩm Ðào, phó chủ tịch Nhà nước Trung Hoa, Lê Khả Phiêu còn ghé thăm Thành Ðô, thủ phủ tỉnh Tứ Xuyên, nơi Ðỗ Mười và Phạm Văn Ðồng năm 1990 đã qua tạ lỗi, để tỏ ra coi trọng tình hữu nghị Hoa Việt và biết ơn thiện ý của Trung Hoa đã chịu để cho Việt Nam được tái lập bang giao.

Vì thế cô về chính trị, không có kinh nghiệm lẫn kiến thức về kinh tế, và lên cầm quyền trong thời gian mà tệ nạn tham nhũng đang lan tràn trong mọi cấp của Ðảng viên, việc đầu tiên của Lê Khả Phiêu là mở hai đợt thanh lọc hàng ngũ Ðảng và bài trừ tham nhũng. Chỉ trong tháng 7, 1999, Ðảng trục xuất 200 Ðảng viên, thi hành kỷ luật 1550 Ðảng viên khác, hàng ngàn viên chức khác bị sa thải. Tháng 10 năm 1999, Tổng Giám Ðốc Thuế Quan Phan Văn Ðính bị mất chức vì quá nhiều cán bộ hải quan ăn hối lộ và buôn lậu. Người thay thế là Nguyễn Ðức Kiên, tỉnh ủy tỉnh Hải Dương. Năm 2001, có hai tỉnh ủy viên bị loại, nhưng Việt Nam vẫn được thế giới xếp vào một trong những nước tham nhũng nhất. Tuy không tham nhũng cá nhân, nhưng vì không có hậu thuẫn trong một Bộ Chính Trị luôn luôn có phe phái, Lê Khả Phiêu phải ưu tiên nâng đỡ những Ðảng viên cùng quê hương là tỉnh Thanh Hóa. Chẳng hạn khi Nguyễn Mạnh Cầm về hưu trong năm 2000, dù Vũ Khoan có khả năng và uy tín hơn, nhưng Lê Khả Phiêu lại áp lực để Nguyễn Dy Niên, người Thanh Hóa, lên thay. Vũ Khoan là người đầu óc cởi mở và chắc chắn sẽ không nhường nhịn Trung Hoa quá đáng như Lê Khả Phiêu. Ông ta đã từng viết trong một báo cáo về sử dụng ngân sách: .”..nhiều thứ biết là chưa đúng, nhưng rất nhiều cán bộ lại biện lý lẽ rằng, Trung Quốc đã làm qua. Nhưng chúng ta phải hiểu rằng cái gì đúng ở Trung quốc không chắc đã đúng ở Việt Nam. Thành quả của Trung quốc là lớn, nhưng không thể mù quáng học tập theo, nếu cứ như vậy chúng ta sẽ lại mắc bệnh giáo điều, căn bệnh của những năm 80…”

*

Cùng thời gian chuyến viếng thăm của Clinton và Putin là những cuộc viếng thăm của Bộ Trưởng Quốc Phòng Fernandes, Ngoại Trưởng Singh và Thủ Tướng Vajpayee của Ấn Ðộ. Ðối với Việt Nam, Ấn Ðộ là một nước quan trọng vì đông dân, có thể chế tạo võ khí khá tối tân và nhất là thật tâm muốn bang giao chặt chẽ với Việt Nam.

Tuy nhiên, sau chuyến đi của Clinton, càng gần đến ngày Ðại Hội Ðảng lần thứ IX, cuộc đấu tranh nội bộ của Ðảng Cộng Sản Việt Nam càng trở nên gay gắt và tiến trình cải thiện bang giao với Hoa Kỳ bị ngưng trệ. Do áp lực của phe bảo thủ, chuyến viếng thăm của Ðô Ðốc Blair, tư lệnh các lực lượng Hoa Kỳ tại Thái Bình Dương, dự trù vào ngày 15-1-01 bất thình lình bị Việt Nam hủy bỏ và không cho biết lý do. Phải chờ đến một năm sau (sau khi Việt Nam đã để cho chiến hạm Yulin của Trung Hoa ghé cảng Sàigòn ngày 22-11-2001), ngày 2-2-02, Ðô Ðốc Blair mới chính thức đến thăm Việt Nam, và đã gặp Nguyễn Tấn Dũng, Phạm Văn Trà, Nguyễn Di Niên. Trong những tiếp xúc, Ðô Ðốc Blair ngỏ ý Hoa Kỳ không muốn thuê lại hải cảng này nhưng mong muốn là tàu bè của tất cả các nước có thể ghé lại khi cần thiết, nhưng sợ làm phật lòng Trung Hoa, Việt Nam đã từ chối.

Cũng trong Hội Nghị Trung Ương Ðảng lần thứ 10 (khóa VIII) vào tháng 7 năm 2000, những điểm căn bản cho bản báo cáo chính trị của Ðại Hội Ðảng lần thứ IX sẽ được tổ chức vào Tháng Tư năm 2001 được Nguyễn Phú Trọng đưa ra bàn thảo. Nội dung dự thảo báo cáo nói chung vẫn là kêu gọi “phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa.” Phương châm này chỉ giản dị là sẽ cố gắng để ưu tiên phát triển cho kinh tế quốc doanh vượt trội hơn kinh tế tư nhân. Hội Nghị Trung Ương cũng đánh giá vai trò của Ban Thường Vụ Bộ Chính Trị để tìm cách thay đổi. Tuy công khai tuyên bố theo đuổi đường lối ngoại giao “đa phương,” bản báo cáo chính trị chỉ nhấn mạnh đến sự cải thiện quan hệ với “những nước láng giềng, xã hội chủ nghĩa và bạn bè tuyền thống” là Ai Lao, Căm Pu Chia, Trung Hoa và Liên Xô mà không nhắc nhở gì đến Hoa Kỳ, Tây Âu hay các nước ASEAN. Tuy là một thành viên của những nước ASEAN, Việt Nam đặc biệt quan hệ thân thiết với Ai Lao và Miến Ðiện. Ai Lao là do bản chất thụ động cố hữu vẫn phụ thuộc vào Việt Nam trên nhiều lãnh vực, còn Miến Ðiện, do nền độc tài quân phiệt nên bị cô lập đối với quốc tế nên rất thân cận và được cảm tình với những lãnh tụ Cộng Sản Việt Nam. Riêng đối với Căm Pu Chia, do mối hận thù lịch sử và thái độ của cán bộ Việt Nam trong thời gian chiếm đóng sau 1979, nên dù cho chính quyền Hun Sen đã được Việt Nam thiết lập và hỗ trợ, đã không còn có một quan hệ thực sự thân thiết như trước. Trong lúc đó, Trung Hoa đã tiếp tục phát triển ảnh hưởng ở Căm Pu Chia bằng cách giúp xây một xưởng đóng tàu lớn ở Kompong Xom với phí tổn trên 500 triệu Mỹ kim.

Tuy nhiên, chủ trương nhường nhịn Trung Hoa không phải là có được sự đồng nhất trong đảng. Ðầu năm 2001, địa vị của Lê Khả Phiêu đã có những dấu hiệu lung lay khi Hội Nghị Trung Ương Ðảng thảo luận về vấn đề tuổi tác, đã biểu quyết không để cho những ủy viên trên 65 tuổi được tái cử. Cả hai Lê Khả Phiêu và Phan Văn Khải đều gần 70 nhưng điều này nhắm vào Lê Khả Phiêu nhiều hơn. Hai tuần sau, vào đúng ngày mà Bộ Trưởng Quốc Phòng Trung Hoa Trì Hạo Ðiền sang thăm Hà Nội, tại miền Nam, báo Sài Gòn Giải Phóng đăng bài báo tiết lộ chi tiết về hơn 300 vụ vi phạm của Trung Hoa vào lãnh thổ Việt Nam. Tờ báo cũng đăng thêm về kế hoạch bảo vệ và quản lý hành chánh của Việt Nam trên những hòn đảo. Ðiều này đã gây phản kháng từ phía Bộ Ngoại Giao của Trung Hoa. Có lẽ đó là sự thách thức của phe đổi mới trong miền Nam đối với phe bảo thủ trong đảng ngoài Hà Nội trước khi có Ðại Hội Ðảng. Ngoài ra đó cũng là một cách trả đũa Trung Hoa của phe đổi mới đối với sự việc tháng 12 năm 2000, trong ngày mà Trần Ðức Lương sang Trung Hoa để đúc kết thỏa hiệp lãnh hải và thỏa hiệp đánh cá trong vịnh Bắc Việt, phát ngôn viên Bộ Ngoại Giao Trung Hoa đã lên tiếng xác nhận chủ quyền của Trung Hoa trên địa phận tranh chấp Trường Sa. Trước sự phản kháng của Bộ Ngoại Giao Trung Hoa, phát ngôn viên Bộ Ngoại Giao Việt Nam trả lời là bài báo trên Sài Gòn Giải Phóng chỉ là ý kiến của một “tờ báo địa phương.” Tuy nhiên, mấy ngày sau, báo Lao Ðộng cũng đăng một bài báo trong đó có ghi lại lời của Hà Văn Tấn, viện trưởng Viện Khảo Cổ nói là đã đào được những di chỉ đồ sứ của Việt Nam từ thế kỷ thứ 13 ở những đảo Nam Yết, Song Tử Tây, Sơn Ca, Sinh Tồn Lớn, Phan Vinh, An Bang… chứng minh chủ quyền lâu đời của Việt Nam trong vùng Trường Sa. Cũng trong tháng 2 năm 2001, báo Tiền Phong đăng tin đã bắt giữ Phạm Văn Dũng, phó chủ tịch Ủy Ban Nhân Dân phường Hoàng văn Thụ, Hà Nội về tội làm gián điệp (với ám chỉ là cho Trung Hoa).

Vào ngày 6 tháng 2, 2001, tại tỉnh Ðạc Lắc (Ban Mê Thuột) và Gia Lai (Pleiku), một biến động lớn đã xảy ra(13). Khoảng năm ngàn đồng bào thuộc nhiều sắc dân thiểu số Ê Ðê, Gia Rai,… nổi lên biểu tình phản đối chính quyền đã dung dưỡng và hợp tác với người Kinh liên tiếp chiếm đoạt đất đai của họ để lập đồn điền trồng cà phê, đồng thời cũng ngăn cản họ được không cho theo đạo Tin Lành. Họ cũng đòi được tự trị về chính trị. Vì cà phê là một nguồn xuất cảng quan trọng (mấy năm gần đây Việt Nam đã xuất cảng cà phê chỉ thua có Colombia), dân người Kinh và ngay cả những “khu kinh tế quốc doanh” của quân đội cũng đã từ từ lấn chiếm và khai phá đất đai của dân thiểu số địa phương. Theo báo Quân Ðội Nhân Dân ngày 27-2-01, một “khu kinh tế quốc phòng” do binh đoàn 16 phụ trách đã được thành lập tại tỉnh Dak Lak từ năm 1999. Khu kinh tế này chiếm tất cả 584.032 mẫu rừng, được khai hoang để trồng cao su, bông vải, hạt tiêu, cà phê. Do việc khai hoang và định cư dân từ những vùng khác cùng với sự tham nhũng của những viên chức hành chánh bắt ép dân địa phương, những bất mãn đã bùng nổ thành biểu tình bạo động, nhất là khi có tin chính phủ trung ương dự định sẽ xây đập thủy điện ở Sơn La và sẽ phải dời khoảng 100 ngàn người (gốc người Thái) đi nơi khác và nơi khác đó chắc chắn là vùng Tây Nguyên. Ðể đối phó với những cuộc biểu tình, chính quyền địa phương phong tỏa toàn tỉnh, cấm phóng viên ngoại quốc đến lấy tin, kiểm soát đường dây điện thoại, sau đó họ huy động công an, quân đội, xe xịt nước để đàn áp, nhưng các cuộc biểu tình vẫn tiếp tục nhiều ngày tại những địa điểm khác nhau.

Khác với những cuộc biểu tình của nhân dân tỉnh Thái Bình mấy năm trước chỉ phản đối về thuế khóa và những viên chức tham nhũng, cuộc biểu tình này liên quan đến những vấn đề lớn lao hơn như luật lệ về sở hữu đất đai, về tình trạng những sắc dân thiểu số, về tự do tôn giáo và tự trị chính trị. Từ nhiều năm, do văn hóa và nếp sống khác nhau, những sắc dân thiểu số tại vùng Tây Nguyên đã khó hòa đồng vào nếp sống của người Việt. Từ sau 1955, những chính quyền liên tiếp ở Nam Việt Nam đã tương đối để cho họ tự trị và đưa ra nhiều biện pháp nâng đỡ. Tuy thế trong năm 1964, đã có một phong trào nổi lọan của phong trào FULRO (Front Unifié de Lutte des Races Opprimées – Mặt trận Ðoàn Kết Những Chủng tộc bị Áp bức) nổi lên trong vùng Ban Mê Thuột. Cuộc nổi lọan này bị dập tắt nhanh chóng, những người cầm đầu chạy qua Căm Pu Chia. Sau năm 1975, do kinh tế Việt Nam tồi tệ, đời sống của những người dân thiểu số lại càng khốn khó hơn. Ngoài những khó khăn về vật chất, chính quyền còn tìm cách bóp nghẹt quyền tự do tín ngưỡng của họ, nhất là những người theo đạo Công Giáo hay Tin Lành. Vì thế, sau nhiều năm bị chèn ép, họ đã nổi lên biểu tình phản đối.

Trước những cuộc biểu tình của dân chúng Tây Nguyên, Bộ Chính Trị của đảng phải họp phiên họp bất thường vào ngày 10-02-2001 để tìm cách đối phó. Trước hết, chính quyền trung ương ra lệnh bắt một số những viên chức hành chánh tỉnh Ðắc Lắc phải xuống ở luôn trong các buôn ấp sinh hoạt với dân chúng và giải quyết nhanh chóng những tranh chấp khiếu nại. Các phái đoàn của đảng và chính phủ lần lượt đến tận nơi tra xét. Ðầu tiên là Nguyễn Tấn Dũng đến cao nguyên vào tháng 2/2002, sau đó là Phạm Thế Duyệt, Phan Văn Khải trong tháng 3, cuối cùng là Lê Minh Hương (Bộ Trưởng Công An) đến vào tháng 7 và cuối cùng là Nông Ðức Mạnh đến vào tháng 9. Những biện pháp lấy lòng dân được hứa hẹn, chẳng hạn lập nhà máy điện, mở bệnh viện, trường học, lấy đất công cấp phát cho dân nghèo. Công tác tuyên truyền cũng được đẩy mạnh, chương trình phát thanh và truyền hình của các sắc tộc khác nhau (Ê đê, Jarai, Koho, Mnong và Sedang) được tăng thêm thời gian. Học sinh sinh viên sắc tộc được tăng trợ cấp và quần áo. Những sách báo tuyên truyền ca tụng chính sách về sắc tộc của đảng được in và phân phát, hình Hồ Chí Minh được phát không. Sau đó, một số đất đai bị chiếm lãnh được trao trả bớt lại. Tại Dak Lak, trả lại 165 ngàn mẫu, tại Lâm Ðồng 66 ngàn mẫu.

Song song với những biện pháp xoa dịu, chính quyền đổ thừa những vụ biểu tình là nằm trong “âm mưu diễn biến hòa bình của những thế lực thù nghịch” và bắt giữ những người bị nghi là chủ mưu. Chính quyền tuyên bố đã bắt giữ khoảng 20 người và gán những người này là thuộc về lực lượng FULRO từng làm loạn đòi tự trị tại Nam Việt Nam bốn mươi năm trước. Họ tố cáo người cầm đầu là Ksor Kok, hiện định cư tại Hoa Kỳ, mưu định thành lập quốc gia Degar trên vùng Tây Nguyên. Khoảng một ngàn người, phần lớn là đàn bà và trẻ em bỏ trốn sang Căm Pu Chia, nhưng chỉ một số nhỏ được đi định cư tại những quốc gia khác. Số còn lại bị chính phủ Căm Pu Chia đẩy trở về Việt Nam. Tuy đã có những biện pháp xoa dịu và đàn áp, những bất mãn của những sắc dân thiểu số ở Tây Nguyên vẫn còn âm ỉ. Bị áp lực dư luận của Mỹ, đại sứ Peterson đã lên vùng Tây Nguyên quan sát vào tháng 7 năm 2001, nhưng khi trở về, ông đã than phiền là không được trực tiếp tiếp xúc với dân chúng. Chính quyền Hà Nội cũng mời Hội Ðồng Về Tự Do Tôn Giáo của Hoa Kỳ cử một phái đoàn đến Việt Nam quan sát vào tháng 2 năm 2002. Tuy nhiên, phái đoàn đã không được gặp những Thượng Tọa Thích Huyền Quang, Thích Quảng Ðộ, Linh Mục Nguyễn Văn Lý hay ông Lê Quang Liêm của Phật Giáo Hòa Hảo. Hà Nội đã phản ứng dữ dội khi hai tháng sau, Human Rights Watch đưa ra một bản báo cáo dày 200 trang nhan đề “Ðàn Áp Những Người Miền Núi” lên án chính quyền Cộng sản Việt Nam. Trước đó, ngày 6-9-01, Hạ Viện Hoa Kỳ biểu quyết đạo luật HR 2833 xác nhận không có tự do tôn giáo ở Việt Nam, nhưng đạo luật này đã bị Thượng Nghị Sĩ Kerry kiềm giữ không cho đưa ra Thượng Viện biểu quyết. Ba năm sau, chính quyền Việt Nam vẫn còn loan báo những xáo động lẻ tẻ vào những ngày lễ Easter hay Giáng sinh năm 2004.

Lợi dụng biến cố Tây Nguyên, trước ngày Hội Nghị Trung Ương Ðảng lần thứ 12 họp lần chót trước Ðại Hội Ðảng để quyết định cải tổ nhân sự, Lê Khả Phiêu đã thuyết phục được đa số ủy viên Bộ Chính Trị là trong lúc tình hình đang biến động, không nên thay đổi lãnh đạo. Tuy nhiên, khi hội Nghị Trung Ương Ðảng họp, ý kiến này bị bác bỏ. Ngoài ra, vì bị Ðỗ Mười và Lê Ðức Anh kiềm chế, Lê Khả Phiêu đã mưu toan dùng Tổng Cục 2, cơ quan tình báo của quân đội đặt máy nghe lén máy điện thoại của những ủy viên Bộ Chính Trị khác (vụ nghe lén này được gọi ám số là A10) để theo dõi hành động và những mưu định của họ. Vụ này bị Lê Văn Dũng và Phạm Văn Trà báo cho Ðỗ Mười và Lê Ðức Anh. Vì thế, cả hai đã được che chở, chỉ bị khiển trách trong hội nghị. Phạm Văn Trà sau đại hội IX vẫn được giữ làm Bộ Trưởng Quốc Phòng và ở lại Bộ Chính Trị tuy bị sụt thấp xuống 2 hạng, còn Lê Văn Dũng tuy cũng bị khiển trách vì vụ Lý Tống và bị mất chức tham mưu trưởng quân đội, nhưng vẫn được chuyển qua làm chủ nhiệm Tổng Cục Chính Trị và được vào Ban Bí Thư. Phùng Quang Thanh, đang là tư lệnh quân khu I được cử thay Lê Văn Dũng trong chức tham mưu trưởng quân đội.

Ngoài Phạm Văn Trà và Lê Văn Dũng, ba đảng viên cao cấp khác cũng bị khiển trách và sau đó mất chức là Ðoàn Văn Kiên, Hoàng Ðức Nghi và Hà Quang Dự. Ðoàn Văn Kiên là tổng giám đốc tổng công ty than đá Vinacoal, vì quản lý sai lầm đã khiến than sản xuất ra không ai mua bị ứ đọng 4 triệu tấn phải bán phá giá và khiến cho một số lớn nhân công phải nghỉ việc. Hoàng Ðức Nghi, chủ tịch Ủy Ban Sắc Tộc, vì đã để xảy ra biến cố Tây Nguyên và Hà Quang Dự, chủ tịch ủy ban thể dục thể thao, vì có quá nhiều gian lận trong những cuộc tranh giải thể thao. Lê Khả Phiêu bị khiển trách và phê bình về việc nghe lén và mất chức tổng bí thư.

Ðại Hội Ðảng lần thứ tám của đảng Cộng Sản Việt Nam họp vào giữa năm 1996 là lúc mà sự tranh chấp quyền lực giữa bộ ba Mười, Anh, Kiệt cầm quyền đang trở nên gay gắt. Sự tranh chấp này chỉ có thể giải quyết được vào hơn một năm sau, nhưng vì những người thay thế như Phiêu, Lương, Khải đều yếu thế cho nên vai trò chính trị cũng như ảnh hưởng của bộ ba kể trên vẫn còn tồn tại cho tới hết nhiệm kỳ năm năm của đại hội. Trong thời gian đó, Lê Khả Phiêu đã được đưa lên cầm quyền như một biện pháp hòa giải. Vì kém khả năng, không có một hậu thuẫn vững mạnh trong đảng và lại phải cầm quyền trong một thời gian mà tình hình quốc tế và quốc nội gặp nhiều khó khăn cho nên Lê Khả Phiêu đã không có được một biện pháp lãnh đạo mạnh mẽ nào để có thể cải thiện tình hình trong mọi phương diện: kinh tế, nội an hay bài trừ tham nhũng…

Tệ hại hơn nữa, căn bản là một chính trị viên, trong sự chọn lựa giữa ý thức hệ xã hội chủ nghĩa và quyền lợi quốc gia, Lê Khả Phiêu đã nghiêng nhiều về ý thức hệ và đã nhượng bộ Trung Hoa quá nhiều, nhất là về lãnh thổ và lãnh hải, với hy vọng lấy lòng được những phần tử bảo thủ (phần lớn do Ðỗ Mười và Lê Ðức Anh chi phối) hầu giữ nguyên được quyền vị. Do tình trạng kinh tế sa sút, tệ nạn tham nhũng trong đảng và chính quyền gia tăng, sự bộc phát những bất mãn của nhân dân ở Thái Bình, Ðồng Nai, Tây Nguyên cùng với sự thao túng của Ðỗ Mười và Lê Ðức Anh,…, Lê Khả Phiêu đã bị loại ra khỏi phạm vi quyền lực sau khi mới làm Tổng Bí Thư được hơn nửa nhiệm kỳ.

.

_____________

Chú thích:

1. Dù Nguyễn Văn Linh được coi như người bắt đầu phong trào Ðổi Mới ở Việt Nam, nhưng về sau, ông ta rất sợ bị gọi là Gorbachev Việt Nam. Ông ta từng gọi Gorbachev là kẻ “cơ hội.” Những cán bộ cốt cán của Cộng Sản Việt Nam khác cũng rất thù ghét cả Gorbachev lẫn Yeltsin, hai người đã phá sập cái thiên đường của họ. Nhà xuất bản Công An Nhân Dân đã cho xuất bản cuốn sách “Sự Phản Bội Của Gooc Ba Trốp” qui lỗi cho Gorbachev về sự sụp đổ của khối Cộng.

3. Việc mất chức của Nguyễn Hà Phan, tài liệu mật của đảng Cộng Sản Việt Nam ghi rằng: “Trong cuộc chiến tranh giải phóng miền Nam và thống nhất đất nước, khi đồng chí Nguyễn Hà Phan bị bắt và giam cầm, đồng chí đã không giữ được danh dự của người cộng sản và đã tiết lộ cho địch những cơ sở nằm vùng. Sau khi được tha năm 1964, đồng chí không báo cáo những sai lầm với Ðảng. Những lỗi lầm của đồng chí Nguyễn Hà Phan rất nghiêm trọng. Trung Ương Ðảng quyết định xử lý kỷ luật với đồng chí Nguyễn Hà Phan và trục xuất ra khỏi Ðảng” (trích Robert Templer trong Shadows and Wind). Lỗi lầm của Nguyễn Hà Phan cũng như quyết định mật đó của Trung Ương Ðảng chắc chắn do phe Võ văn Kiệt tiết lộ.

4. Lý Quý Chung trước khi chết đã viết cuốn “Nhật Ký Không Tên.” Người viết không biết nhiều về cá nhân ông, nhưng qua hành động, ông điển hình là một người “cách mạng 30.” Dĩ nhiên là ông đã từng đối lập với chính phủ Cộng Hòa, nhưng chính phủ đó vẫn nương nhẹ ông, để cho ông viết báo chỉ trích chánh phủ, kiếm tiền, làm dân biểu, đi ngoại quốc. Bạn bè ông, người thân của ông đi tù, trong nhật ký của ông, ông không viết một lời thông cảm. Nhật ký chỉ ghi lại những hậm hực vì không được trọng dụng. Một chuyện khác, trong khi cả những cán bộ cộng sản cao cấp cũng công nhận lỗi lầm về việc cải tạo công thương nghiệp sau 1975 thì trong nhật ký của ông, điều duy nhất mà ông ấm ức là chính quyền đã tịch thu nhà của cha ông, khi ông “tại tòa báo và thời điểm đó, tôi tuyên truyền cho các cuộc cải tạo tư sản mại bản, công thương nghiệp, tư sản tư doanh.” Bỏ rơi những người quốc gia, nhưng những người cộng sản chính thống cũng không coi ông ra gì, ông là điển hình của giai cấp lưng chừng, “phi cầm phi thú” theo như nhà văn Hoàng Hải Thủy.

5. Vụ đàn áp nhân dân Thái Bình: www.hrw.org/reports/1997/vietnam

6. Kaysone Phomvihane: sinh năm 1920, cha là người Việt (tên Nguyễn Trí Loan?), là người thực sự chỉ huy đảng Cộng Sản Ai Lao đằng sau Souphanouvong. Làm tổng bí thư kiêm thủ tướng từ 1975 đến 1991 thì từ chức, lên làm chủ tịch nước. Chết năm 1992, được Việt Nam bỏ tiền ra làm một viện bảo tàng kỷ niệm Phomvihane rất lớn. Mấy năm gần đây, vì Trung Hoa muốn tranh giành ảnh hưởng với Việt Nam tại Lào, cho nên năm 2006, họ làm một cái tượng của Phomvihane cao 8.5m để đặt trước nhà bảo tàng này (xin đọc: Ai Lao: đất và người, của Hàn Lệ Nhân, website Vietnamexodus).

7. Vụ án của Trịnh Vĩnh Bình và Phương Vicarrent, xin đọc bài của Trần Quốc Hoàn (bút hiệu) và bài của ký giả Trọng Kim (báo Ngày Nay) trên website Ðàn Chim Việt. Người viết Trần Quốc Hoàn, có lẽ là một nhân viên trong Bộ Công An nên cũng đã rất rõ về Nguyễn Khánh Toàn. Nguyễn Khánh Toàn là nhân vật số 2 trong Bộ Công An, vào năm 2007 còn bị tai tiếng về gian lận nhà đất. Ông Hoàn còn biết rõ vợ Nguyễn Khánh Toàn là Phạm Gia Liên có hùn hạp làm ăn với Ngô Chí Ðan.

8. Theo Sheri Prasso (http://sheridanprasso.com/viet.trade.htm), người ra lệnh cho Phan Văn Khải không ký BTA là Ðỗ Mười dù cho lúc đó Ðỗ Mười không còn là tổng bí thư, cũng không phải là ủy viên Bộ Chính Trị mà chỉ là “cố vấn.” Mấy năm sau, trong một Hội Nghị Trung Ương Ðảng, nhiều ủy viên trung ương đã chỉ trích gay gắt Ðỗ Mười là làm trái nguyên tắc, nhưng lúc này Ðỗ Mười cũng đã không còn là cố vấn.

9. Chuyến đi của Phạm Thế Duyệt sang Trung Hoa năm 1999, ngoài việc tham khảo ý kiến về thỏa ước BTA, còn để học hỏi thêm về việc phát triển Mác xít khi thực hành kinh tế tư bản. Ðể biện luận điều này, ủy viên Bộ Chính Trị Trung Hoa Li Ruihuan nói rằng: “Chủ nghĩa Mác không gạt bỏ mà còn hấp thụ tất cả những thành tựu của văn minh loài người”

10. Trong lễ ký kết thỏa ước, Phan Văn Khải đến tham dự, nhưng Chu Ðông Cơ không đến, mà chỉ cử Hoàng Nghị (Wang Yi), trưởng phái đoàn thương thuyết của Trung Hoa, tương đương với cấp thứ trưởng thay mặt mà thôi.

11. Việc xé lẻ ASEAN của Trung Hoa được Trần Quang Cơ gọi là để tránh cảnh “quần lang đả hổ.”

12. Cuộc đời Lý Tống là một cuộc đời bất khuất nhưng cũng ly kỳ không kém những nhân vật của Jack London và đã được kể lại trong báo Reader’s Digest. Ông mãn hạn tù (lần thứ ba) ở Thái Lan năm 2007, chính quyền Cộng Sản Việt Nam đòi dẫn độ ông về Việt Nam. Mới đầu, tòa sơ thẩm đồng ý nhưng ngày 3-4-2007, tòa phúc thẩm đã bác bỏ chuyện này vì hành động của Lý Tống đối với Việt Nam có tính cách chính trị và luật Thái Lan không cho phép dẫn độ tù chính trị. Ông trở về Hoa Kỳ vào tháng 4, 2007. Tổng cộng ông đã ở tù 21 năm. Trong lần đầu tiên vượt ngục từ Việt Nam tới Singapore, ông được chuyển qua trại Galant để cứu xét định cư, có một hội đoàn gửi tặng ông 500 Mỹ kim, ông đã không dùng và bỏ hết vào quĩ giáo dục trẻ em tị nạn trên đảo.

13: Vụ xáo trộn Tây Nguyên: Thunder from the Highlands của Margot Cohen trong Tập san Far Eastern Economic Review số tháng 3, 2001.

*

Chính Quyền Cộng Sản Việt Nam Sau Ðại Hội IX (2001-2006)

Trung tuần tháng 4 năm 2001, đảng Cộng Sản Việt Nam tổ chức Ðại Hội Ðảng lần thứ IX để kiểm điểm lại những thành tích trong năm năm qua, đồng thời cũng xếp đặt lại nhân sự và đề ra những đường lối mới trong vòng năm năm tới.

Thành tích của những năm sau Ðại Hội Ðảng lần thứ VIII năm 1996 đã không được lạc quan. Do sự tranh chấp giữa hai phe đổi mới và bảo thủ trong đảng, cho nên đã không có một biện pháp quyết liệt nào được đưa ra khi phải đối phó với những đổi thay của tình hình kinh tế trên thế giới, nhất là đã không có một kế hoạch nào để đối phó với cơn khủng hoảng tiền tệ trong vùng Ðông Nam Á năm 1997. Số vốn đầu tư của ngoại quốc vào Việt Nam trong những năm này đã sụt xuống thấp hơn năm 1992, cán cân mậu dịch bị thâm thủng tới 150 phần trăm, nạn thất nghiệp ngày càng gia tăng vì dân số đã tăng nhanh chóng, mỗi năm lại có thêm gần 1 triệu người đến tuổi lao động

Ðại Hội Ðảng lần IX vào Tháng Tư năm 2001 đã được chuẩn bị từ những hội nghị Trung Ương Ðảng lần thứ 9 của khóa VIII đầu năm 2000. Cho tới Hội Nghị Trung Ương lần thứ 11 vào tháng 2, 2001 thì đã có nhiều dấu hiệu chứng tỏ là Tổng Bí Thư Lê Khả Phiêu sẽ bị mất chức dù mới được làm việc có hơn nửa nhiệm kỳ. Nghị quyết của Hội Nghị Trung Ương Ðảng lần thứ 11 này đã khuyến cáo là những người trên 65 tuổi không nên ra ứng cử để trẻ trung hóa guồng máy lãnh đạo. Ðiều này nhắm vào Lê Khả Phiêu (sinh năm 1931, sắp 70 tuổi) và Lê Khả Phiêu đã phải tích cực vận động để được thêm vào câu “trừ vài chức vụ then chốt.” Ngoài ra, để tạo áp lực với những phần tử bảo thủ, Lê Khả Phiêu đã dàn xếp để việc canh giữ an ninh cho Ðại Hội Ðảng không được giao cho công an phụ trách như mọi lần mà được giao cho quân đội. Trong dịp hội nghị lần thứ 11 này, Trung Ương Ðảng cũng cho biết là đã có hàng ngàn lá thư góp ý kiến vào bản dự thảo Nghị quyết của Ðại Hội Ðảng. Tuy đảng bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc về những ý kiến đóng góp này nhưng sau đó, bản Nghị quyết chính thức vẫn giống y như bản dự thảo.

Hiển nhiên là trong những năm sau Ðại Hội Ðảng lần thứ VIII (1996), nhiều biến cố không thuận lợi đã xảy ra như sự sa sút của kinh tế Việt Nam, tệ nạn tham nhũng tràn lan, những bất ổn ở Thái Bình, Ðồng Nai, Tây Nguyên đã khiến những ủy viên Trung Ương Ðảng không tín nhiệm Lê Khả Phiêu ở trách nhiệm lãnh đạo. Nhưng cũng nhờ biến cố Tây Nguyên, Lê Khả Phiêu đã cố gắng thuyết phục những ủy viên Bộ Chính Trị là “không nên có thay đổi lãnh đạo trong khi trong nước đang có rối loạn” để có thể ra tái cử. Nhiều ủy viên Bộ Chính Trị dĩ nhiên cũng muốn ở lại thêm một nhiệm kỳ nên ít ra đã có 2 phần 3 ủy viên đồng ý. Nhưng dù vậy, đề nghị này đã bị Hội Nghị Trung Ương Ðảng lần thứ 12 họp mấy ngày trước ngày Ðại Hội Ðảng bác bỏ, một điều hiếm hoi ít khi xảy ra.

Sự mất chức của Lê Khả Phiêu ngoài những nguyên nhân khách quan kể trên còn do những vụng về lầm lỗi của cá nhân Lê Khả Phiêu. Trước hết, tuy không có một hậu thuẫn chính trị vững mạnh, kể cả trong quân đội, Lê Khả Phiêu ngoài ý muốn được tiếp tục làm Tổng Bí Thư ít ra là đủ một nhiệm kỳ 5 năm, lại còn muốn kiêm nhiệm thêm chức vụ chủ tịch Nhà nước để được coi như quốc khách khi đi công du các nước khác, giống như Gorbachev hay Giang Trạch Dân. Vì Lê Khả Phiêu vận động chuyện này khá công khai, điều này đã gây bất mãn trong những ủy viên trung ương. Nhưng lỗi lầm lớn nhất của Lê Khả Phiêu là đã mưu toan bãi bỏ chức vụ của ba “cố vấn.” Trong ba người này, Võ Văn Kiệt dĩ nhiên luôn luôn chống đối với Lê Khả Phiêu. Người mà Võ Văn Kiệt đỡ đầu cho vào ban Thường Vụ Bộ Chính Trị là Nguyễn Tấn Dũng đã bị Phiêu loại ra ngoài ngay sau khi Phiêu được lên chức. Ðỗ Mười và Lê Ðức Anh, tuy cùng chung khuynh hướng bảo thủ nhưng đã tức giận khi bị Lê Khả Phiêu mưu toan loại họ ra khỏi phạm vi quyền lực. Trong Ðại Hội Ðảng toàn quân ngày 4-1-2001, Lê Ðức Anh đã làm cho các đại biểu quân đội ngạc nhiên khi công khai kết tội Lê Khả Phiêu, người đã từng được Lê Ðức Anh nâng đỡ để thăng tiến.

Ðồng thời, trong đảng, Ðỗ Mười cũng tích cực vận động để loại bỏ Lê Khả Phiêu. Trong hồi ký của Ðoàn Duy Thành, Ðoàn Duy Thành kể lại là Ðỗ Mười đã nói “Nó muốn lật tao, tao lật nó.” Nguyễn Ðức Tâm trong thư gửi Trung Ương Ðảng vào dịp Ðại Hội Ðảng lần thứ X cũng kể lại là Ðỗ Mười đã cho phổ biến một bản báo cáo tố cáo Lê Khả Phiêu đã giao du thân mật với những phụ nữ như Ðặng Thị Thu Hà, Vũ Thị Dung… trong đó có người hoạt động tình báo cho ngoại quốc (ám chỉ Trung Hoa). Vì thế, tuy khác khuynh hướng, cả ba đã ký tên chung trong một bức thư gửi cho các ủy viên trung ương để chê trách khả năng lãnh đạo của Lê Khả Phiêu. Ðiều mỉa mai cho Lê Khả Phiêu là khi Nông Ðức Mạnh được bầu làm tổng bí thư, ông ta chỉ nhận chức vụ với điều kiện là không còn ba cố vấn và cả bộ ba này đã chấp nhận. Một lỗi lầm nữa của Lê Khả Phiêu là đã dùng Tổng Cục 2 tình báo của quân đội để dùng máy ghi âm nghe lén những ủy viên Bộ Chính Trị khác (vụ A10).

Nếu Ðỗ Mười muốn loại Lê Khả Phiêu là vì Phiêu có ý phản bội, loại bỏ những cố vấn, Lê Ðức Anh đã muốn loại Lê Khả Phiêu với một thâm ý khác. Tin tưởng là hậu thuẫn của mình còn mạnh, Lê Ðức Anh dù đã về hưu và làm cố vấn nhưng lại muốn trở lại làm tổng bí thư, cho nên dù đã được Phạm Văn Trà và Lê Văn Dũng báo cáo về việc Lê Khả Phiêu dùng Tổng Cục 2 nghe lén điện thoại từ nhiều tháng trước, nhưng đã chờ cho tới khi những Hội Nghị Trung Ương Ðảng cuối cùng của khóa VIII họp, khi đảng Cộng Sản sắp xếp nhân sự lãnh đạo cho Ðại Hội Ðảng lần thứ IX, mới cho trợ lý của mình là Nguyễn Bắc Son đi khắp nơi báo cáo và nói xấu Lê Khả Phiêu (1). Cuối cùng, một lý do khác khiến Lê Khả Phiêu bị mất chức là thái độ qui phục Trung Hoa và việc nhân nhượng đất đai đã gây bất bình cho một số đảng viên.

Kể từ 1986, sau khi phát động đường lối đối ngoại “đa phương và đa dạng,” Việt Nam đã cố gắng, một mặt kết chặt thân hữu ngoại giao với Trung Hoa, mặt khác cải thiện quan hệ ngoại giao với các nước khác (như các nước ASEAN, Nhật Bản, Tây Âu, Hoa Kỳ…). Tuy vì căn bản đều là xã hội chủ nghĩa, Việt Nam đã thiên về Trung Hoa, nhưng sự thiên vị đã trở nên quá đáng trong thời gian Lê Khả Phiêu làm tổng bí thư, khiến Việt Nam giống như một nước chư hầu. Những thỏa hiệp về ranh giới lãnh thổ hay lãnh hải với Trung Hoa đã không hề được tham khảo ý kiến với Trung Ương Ðảng và cũng chưa được sự chấp thuận của Bộ Chính Trị hay đưa ra trước quốc hội. Do đó, vào kỳ Ðại Hội Ðảng tháng 4, 2001, dù cho có Hồ Cẩm Ðào, phó chủ tịch nhà nước và Tổng Bí Thư tương lai của Trung Hoa, sang tham dự và ngồi cạnh, điều này đã không giúp gì được cho Lê Khả Phiêu. Ngoài ra, ba ngày trước đại hội, khi Hồ Cẩm Ðào tới Hà Nội, báo Nhân Dân đã đăng bài xác nhận chủ quyền đất đai của Việt Nam ở biển Ðông, gián tiếp nhắc nhở đến khuynh hướng bành trướng của Trung Hoa và thái độ cầu cạnh của Lê Khả Phiêu. Trong bản báo cáo kinh tế đọc trước Ðại Hội Ðảng, có đoạn là Việt Nam sẽ xây dựng những cơ sở hậu cần ở những hải đảo để phát triển kinh tế cũng như quốc phòng. Sợ mất lòng Trung Hoa, Nguyễn Dy Niên sau đó giải thích đó chỉ là một đường lối chung còn việc áp dụng là tùy theo địa phương hay trường hợp.

Sau khi đã loại Lê Khả Phiêu, những ủy viên Trung Ương Ðảng bắt đầu họp để bầu Tổng Bí Thư vào ngày 17-4-2001, hai ngày trước đại hội chính thức của đảng. Trong vòng đầu, có ba người được đề cử là Nông Ðức Mạnh, Nguyễn Văn An và Trần Ðức Lương. Tuy dẫn đầu, nhưng Nông đức Mạnh được chưa tới 60% số phiếu, người về thứ hai là Nguyễn Văn An, trưởng Ban Tổ Chức Ðảng được 35% và Trần Ðức Lương được khoảng gần 10%. Vì tỷ số phiếu 35% của Nguyễn Văn An là một số phiếu vững chắc của những cán bộ hoạt động trong tổ chức đảng (2), Nông Ðức Mạnh cảm thấy không an tâm, sợ rằng với tư cách trưởng ban tổ chức đảng, Nguyễn Văn An có thể gây khó khăn hay có thể kiếm thêm được một số hậu thuẫn để lật lại mình. Ngoài ra, với ảnh hưởng sâu rộng của bộ ba “cố vấn,” Nông Ðức Mạnh sẽ có thể bị trói tay như Lê Khả Phiêu. Do đó, mới đầu Nông đức Mạnh đã từ chối không nhận chức.

Sự từ chối của Nông Ðức Mạnh gây khó khăn cho Ủy Ban Trung Ương, vì trong số những ứng viên, chỉ có Nông Ðức Mạnh là có những điều kiện thuận lợi.

Trước hết, từ trước tới nay, Nông Ðức Mạnh vẫn là người đứng ngoài những tranh chấp giữa hai phe bảo thủ và đổi mới. Trong gần mười năm làm chủ tịch quốc hội, quốc hội này đã chấp thuận hết những đạo luật đổi mới kinh tế lẫn đàn áp chính trị nên đã được lòng cả hai phe. Uy tín của quốc hội cũng khá hơn khi quốc hội được quyền triệu tập bộ trưởng ra điều trần công khai. Vì chức thủ tướng chắc chắn về tay Phan Văn Khải, một người miền Nam và chức Chủ tịch Nhà nước là Trần Ðức Lương, người miền Trung, chức Tổng Bí Thư phải là người miền Bắc như Nông Ðức Mạnh hay Nguyễn Văn An. Ngoài ra, với tin đồn là con rơi của Hồ Chí Minh, cá nhân và đời tư của Nông Ðức Mạnh sẽ không bị phanh phui (khi được hỏi, Nông Ðức Mạnh đã không phủ nhận và cũng không xác nhận tin đồn này). Sau cùng, nhờ là gốc người Tầy, được cử lên làm một chức vụ quan trọng nhất nước sẽ chứng tỏ là chính quyền Việt Nam không kỳ thị chủng tộc, xoa dịu bớt sự phẫn nộ của dân thiểu số đang biểu tình gây rối trên vùng Tây Nguyên và làm vừa lòng Trung Hoa

Vì không có ai thay thế và thời giờ quá gấp rút, chức vụ Tổng Bí Thư phải được bầu ngay để có thể đưa ra cho Ðại Hội Ðảng “nhất trí biểu quyết chấp thuận” hai ngày sau nên Trung Ương Ðảng phải tìm biện pháp hòa giải bằng cách thuyết phục để ba “cố vấn” từ chức, không còn dính dáng gì đến việc điều hành của Bộ Chính Trị, đồng thời, thuyên chuyển Nguyễn Văn An ra khỏi ban tổ chức, sang làm chủ tịch quốc hội. Sau khi đạt được những nhượng bộ kể trên, Nông Ðức Mạnh chính thức nhận lời làm tổng bí thư. Tuy vậy, vây cánh của Ðỗ Mười và Lê Ðức Anh vẫn còn rất mạnh (như Phạm Văn Trà, Trần Ðình Hoan, Phan Diễn, Nguyễn Khoa Ðiềm…). Hai người này đã ủng hộ Nông Ðức Mạnh vì thấy Nông Ðức Mạnh là người tương đối không có một hậu thuẫn vững mạnh nào để chống lại họ.

Tân Tổng Bí Thư của đảng Cộng Sản Việt Nam sinh năm 1940 ở tỉnh Bắc Thái, được du học Liên Xô và tốt nghiệp kỹ sư lâm nghiệp, sau đó về làm việc ở ty Lâm Nghiệp Bắc Thái, thăng trưởng ty năm 1977, sau đó được bầu làm chủ tịch ủy ban nhân dân tỉnh Bắc Thái năm 1986. Năm năm sau, trở nên ủy viên trẻ nhất của Bộ Chính Trị và được đề cử làm chủ tịch quốc hội từ năm 1992.

Ngoài chức tổng bí thư, Ðại Hội Ðảng cũng bầu ra 150 ủy viên Trung Ương Ðảng, trong đó đứng đầu là một Bộ Chính Trị gồm 15 người sắp xếp theo thứ tự:

1. Nông Ðức Mạnh: Tổng Bí Thư

2. Trần Ðức Lương, kiêm nhiệm chức Chủ Tịch Nhà Nước

3. Phan Văn Khải, kiêm nhiệm Thủ Tướng

4. Nguyễn Minh Triết, bí danh Sáu Phong, là Bí Thư Thành Ủy Thành Phố HCM từ 2001. Trước đó, Nguyễn Minh Triết là Bí Thư Tỉnh Ủy Bình Dương, đã thiết lập một khu kỹ nghệ hỗn hợp với Singapore tương đối thành công.

5. Nguyễn Tấn Dũng, Phó Thủ Tướng

6. Lê Minh Hương, Bộ Trưởng Công An

7. Nguyễn Phú Trọng, Bí Thư Thành Ủy Hà Nội

8. Phan Diễn, Bí Thư Thành Ủy Ðà Nẵng. Hơn một năm sau, được cử làm Thường Vụ Ban Bí Thư, một chức vụ quan trọng để cùng Nông Ðức Mạnh điều hành hoạt động hàng ngày của nội bộ đảng

9. Lê Hồng Anh, trưởng ban kiểm soát Ðảng, từng là Bí Thư Tỉnh Ủy Kiên Giang, trong lý lịch khai là có bằng cử nhân luật và chính trị

10. Trương Tấn Sang trưởng ban kinh tế Ðảng, quê ở Ðức Hòa, Long An. Trương Tấn Sang cũng là anh em vợ của Nguyễn Tấn Dũng và là anh em của Trương Mỹ Hoa, từng là phó chủ tịch nhà nước.

11. Phạm Văn Trà, Bộ Trưởng Quốc Phòng

12. Nguyễn Văn An trưởng ban tổ chức đảng, từng là bí thư tỉnh ủy Hà Nam, từ tháng 11, 2001 được đổi qua làm chủ tịch quốc hội.

13. Trương Quang Ðược, trưởng ban vận động của đảng, từng là bí thư thành ủy Ðà Nẵng trước Phan Diễn.

14. Trần Ðình Hoan, sau này làm trưởng ban tổ chức Trung Ương Ðảng (3)

15. Nguyễn Khoa Ðiềm, sau này rời chức bộ trưởng Thông Tin Văn Hóa để thăng làm trưởng Ban Thông Tin Văn Hóa của Ðảng.

 

 

Hoàng Dung

Hậu trường chính trị Việt Nam sau 1975 – Hoàng Dung

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *