Đôi đũa

.

 

*

 

Đôi đũa xuất phát từ dân tộc nào?  

 

Nhiều người nói là từ người Tàu. Tuy nhiên nhìn và tra cứu kỹ văn minh Tàu, thấy người Huê-Hạ xưa là dân du mục, ẩm thực thiên về lúa mì tức là họ xay ra bột làm bánh, rồi bốc tay mà ăn.

 

Trong văn minh nhân loại, với cái muỗng, nĩa và dao của Tây, thói ăn bốc của Ấn Độ thì đôi đũa của Á Châu nhìn rất hay, quý phái và điệu nghệ.

 

Đũa không thể thiếu trong bữa ăn của dân Á, trong tiệc tùng quan-hôn-tang-tế, đặc biệt ăn món nước như phở, bún bò, hủ tíu, mì thì phải xài đũa.  Dân Ý ngày xưa (Marco Polo ở thế kỷ thứ 13) “chôm” món mì của Tàu nhưng lại ăn với nĩa. Trong cuốn “L‘histoire culturelle de la Chine” nói người Tàu thời tiên Tần (trước Tần Thủy Hoàng) vẫn còn ăn bốc. Riêng dân Tàu Hoa Bắc ăn bốc là một thói quen truyền thống.

 

Chỉ có các dân tộc Bách Việt phía Nam cấy lúa, nấu cơm, làm bún ăn thì phải xài đũa, để gắp hay và vô miệng.  Cây tre ở xứ Nam đã cho ra đôi đũa tre huyền thoại. Tàu cứ thế mà bắt chước ta… Hồi xưa khi Tây mới qua miền Đông Á, họ nhìn người Á châu gắp thức ăn tưởng như là làm xiếc với đôi đũa (quá tài tình!)  Rồi ông Tây bà đầm cũng bày đặt bắt chước làm nhưng không được.

 

Đũa luôn đi thành một cặp thể hiện âm-dương, đực-cái trong văn hoá.

 

“Đôi ta như đũa trong kho,
Không tề, không tiện, không so cũng bằng.”

 

Dân gian gọi những thứ tréo ngoe, ví như “vợ cao chồng lùn” là “đôi đũa lệch,” kêu “người nghèo mà ham vợ (hay chồng) giàu” là “đũa mốc mà trèo mâm son…”

 

“Đũa vàng dộng xuống mâm son
Thấy ai có ngãi, anh thương mặn nồng.”

 

Đôi đũa hình thành ra quy tắc xử sự trong văn hóa ẩm thực. Dâu về nhà chồng khi dọn cơm phải đặt đũa ngay thẳng, đầu đũa phải bằng, không được để lệch cao thấp, không được lộn ngược đầu hai chiếc đũa. Và khi ăn phải chờ người lớn tuổi cầm đũa trước.

 

Người Nam Kỳ nói riêng và người Việt Nam nói chung kỵ những cái sau đây trong bữa ăn :

 

– Cấm cắm đũa thẳng đứng trên chén cơm vì cái này chỉ để cúng người đã chết.

– Không trở đũa để chỉ vào người. Cái này là bị xem là mất dạy, vô phép.

– Không dùng đũa gõ chén, gõ tô. Gõ là kêu ma về, và cũng mất lịch sự.

– Không xài đũa của mình đang ăn gắp và nhúng trong tô canh lớn xài chung. Phải trở đầu đũa hoặc tốt nhứt lấy đũa riêng khác mà gắp đồ ăn chung.

– Tuyệt đối không dùng đũa mình đang ăn gắp thức ăn cho người khác.

– Khi gắp đồ ăn, tránh đụng đũa kêu chan chát.

– Không dùng đũa để xỉa cắm vào đồ ăn như nĩa.

– Hồi nhỏ mà lấy đũa làm đồ chơi thí dụ như chơi banh đũa là bị rầy chết, vì như dậy là trù gia đình tàn mạt (?)

 

Rồi khi cúng cũng có nguyên tắc: Phải đặt đũa ngay ngắn ở mặt bàn sát bên cái chén, không được đặt trên cái chén.

 

Nhưng ngày nay người ta làm cũng tùm lum…

 

Tây ăn thì múc riêng ra cho từng người trong dĩa của họ, nhưng An-Nam-Mít ta có thói quen ăn chung mâm, uống chung ly rượu mới là “thân tình.” Thành ra chuyện chủ nhà dung đũa của mình gắp đồ ăn cho khách lùm lum khó tránh. Tây nó viết rằng một tô canh của dân An Nam ta có hàng chục đôi đũa nhúng vô; thành ra về nhà bên vợ thằng rể Tây không dám ăn cơm chung gia đình (!).



Còn nữa!  Thành ngữ động từ “trả đũa” là đáp trả lại, trả thù lại, ăn miếng trả miếng cho sòng phẳng, cho đã nư hả giận.  Câu “trả đũa” xuất xứ từ một nghi lễ cưới thời xưa: Khi đi coi vợ thì đưa chén đũa làm tin, sau không thuận thì người ta trao trả lại (?). 

 

 

 

Petrus Tran
(Sử Nước Nam)

 

 

Trần Văn Giang (ghi lại)

 

Đôi đũa – Petrus Tran

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *