Tiếng Việt qua Ba Miền

 .

 

 

*

 

Nước Việt Nam nhỏ bé, chỉ rộng 311 ngàn cây số vuông (chưa bằng một nửa Tiểu Bang Texas) mà 90 triệu người Việt có hàng trăm giọng nói khác nhau. Đi theo chiều dài từ Bắc và Nam khoảng hơn 3500 cây số; bắt đầu là miền biên giới xuống đồng bằng sông Hồng có nhiều giọng khác nhau của các sắc tộc thiểu số; nhưng giọng Hà nội là tiêu chuẩn. Qua tỉnh Thanh Hóa, giọng nói đã thành trọ trẹ – từ cách phát âm rất nặng miền Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình; nhẹ dần khi qua Quảng Trị và Huế (Thừa Thiên). Vượt qua đèo Hải Vân, giọng nói đã biến đổi hẳn khi đi vào địa phận Quảng Nam, Quảng Ngãi; Bình Định rồi nhẹ dần khi qua Phú Yên, Khánh Hoà, Ninh Thuận, Bình Thuận. Bắt đầu vào Long Khánh thì đúng là giọng miền Nam hồn hậu, dù có khác nhau đôi chút khi vào Sài Gòn rồi xuống vùng đồng bằng Cửu Long.

 

Từ khi vua Lý Thái Tổ dựng cơ nghiệp vào đầu thế kỷ thứ 11, đất Thăng Long trở thành cái nôi văn hoá Việt Nam từ đó cho đến khi Hà Nội lọt vào tay bè đảng Hồ Chí Minh và trở thành thủ đô của nước Việt Nam Cộng Sản. Giọng Hà Nội được coi là tiêu chuẩn cho cả nước trước 1954 vì Hà Nội là trung tâm văn học Việt Nam qua một lịch sử ngàn năm. Ngay cả sau khi nhà Nguyễn dựng kinh đô ở Huế vào đầu thế kỷ thứ 19, Hà Nội vẫn giữ ngôi chủ tể của đất thần kinh văn vật.

 

Hiệp Định Geneve chia cắt đất nước năm 1954. Theo đoàn người khổng lồ chạy nạn Cộng Sản, di cư vào Nam mà đa số là dân quê các vùng quanh Hà Nội – gần như tất cả những trí thức văn nhân thuộc tầng lớp thượng lưu của Hà Thành đã tập trung về thủ đô Sài Gòn của miền Nam tự do. Họ chính là hạt giống tốt cho sự phát triển văn học nghệ thuật miền Nam.

 

Đa số các nhà giáo, các văn nhân, thi sĩ, ca sĩ, nhạc sĩ thời Việt Nam Cộng Hoà là người miền Bắc. Khi dân miền Nam còn trong tình trạng chưa phát triển mấy về văn học, thì chữ viết, lời nói, giọng nói của những người từ miền Bắc trở thành chuẩn mực cho miền Nam. Các trường cấp Tiểu Học lên tới Đại Học khi giảng dạy về Quốc Văn, cũng dùng các sách vở, truyện thơ của những nhà văn miền Bắc như Nhất Linh, Hoàng Đạo, Thế Lữ, Xuân Diệu, Huy Cận. Giới học sinh và thành phần trung lưu thì ưa chuộng các bản nhạc tiền chiến miền Bắc với các giọng ca của Thái Thanh, Châu Hà, Kim Tước, Sĩ Phú, Hợp ca Thăng Long… Điều đáng nhớ là phần lớn  các ca sĩ miền Nam khi hát tân nhạc, vẫn gắng uốn giọng cho giống người Bắc.

 

Nhưng một sự thật không thể chối cãi là hình như có đến hầu hết người Việt phát âm không theo đúng tiêu chuẩn phiên âm của vài mẫu tự Latin mà Giáo Sĩ Francisco de Pina đã dùng để đặt cho các chữ cái Việt Nam, đặc biệt là các phụ âm.

 

1. Phụ âm “r, R” đúng ra phải như đọc chữ “r” trong Roma, Russia, Romeo, Radio

 

Chỉ có người miền Trung và nhiều tỉnh miền Nam là đọc đúng phụ âm này.
Lấy vài chữ làm thí dụ: rộn ràng, rã rời, xong rồi

 

Người miền Bắc thì đọc na ná như phụ âm “z”, hay ký âm /ʁ/ trong IPA (?).
Ví dụ:  “zộn zàng, zã zời, xong zồi.

 

Trong khi đó, dân quê miền cực Nam như Rạch Giá, thì lại đọc như phụ âm “g.” Ví dụ: “Con cá gô trong gổ, gộn gàng, gã gời, xong gồi. Một số bình dân Sài Gòn thì lại đọc thành: “Giộn giàng, giã giời, xong giồi.”

 

2. Phụ âm “TR” cũng chỉ có dân miền Trung và nhiều tỉnh miền Nam đọc đúng.  
Còn dân Bắc đọc nhẹ âm “TR” và có vẻ hơi nà ná như phiên âm // trong Tchaikovsky.

 

Ví dụ: trong sáng, trọng trách, trớ trêu, trời ơi thành ong sáng, ọng ách, ớ êu, ời ơi. Bình dân Sài Gòn thì đọc rõ như “chong, chêu, chời

Người gốc Bùi Chu thì phát âm “TR” thành “T”

 

Ví dụ: “Con trâu trắng buộc bụi tre xanh” thành “con tâu tắng buộc bụi te thanh.”

Dân Hà Nội tuy phát âm không đúng tiêu chuẩn nhưng khi viết, họ lại viết rất đúng các chữ đó.

 

3. Phụ âm “D” phát âm thành “R” của dân vùng Phát Diệm.
Ví dụ: “Con dao, cái giường, dụng cụ, lịch duyệt” thành “con rao, cái rường, rụng cụ, lịch ruyệt.

 

4.  Phụ âm “N” thành “L” và ngược lại “L” đọc thành “N mà đa số dân đồng bằng các tỉnh miền Bắc phát âm sai:

Ví dụ: “Non nước, nở nang, Hà Nội” thành “lon lước, lở lang, Hà lội.

 

Và ngược lại “con lợn, tấc lòng, lưu luyến” thì lại đọc “con nợn, tấc nòng, nưu nuyến.

 

Trước năm 1954, dân Hà Nội thanh lịch không nói ngọng giữa hai phụ âm “N” và “L.” Nhưng khi đoàn quân vô sản của Hồ Chí Minh kéo vào Hà Hội, đa số dân cư Hà Nội chạy vào Nam, số còn lại – nhất là những trí thức còn sót lại – bị chính quyền mới đuổi ra khỏi thành phố, đày lên mạn ngược lao động trong các nông trường. Cộng Sản đưa đám dân quê là gia đình của cán bộ, bộ đội vào lấp đầy dân số. Học sinh Hà Thành được dạy bởi các giáo viên từ rừng rú mới ra. Đúng như thành ngữ “Mán về thành” hay “đàn bò vào thành phố.”

 

Theo Trần Hồng Vân (bí danh Việt Thường, Nam Nhân), một cựu ký giả Việt Cộng bị tù ở trại Z-30D, thì các cán bộ công nhân viên ngoài Bắc học theo cách nói ngọng hai phụ âm “N’ và “L” như để tự chứng minh họ nằm trong giài cấp bần nông!

 

5. Phụ âm “NH” cuối chữ bị đọc thiếu. Trường hợp này phải tinh tế lắm mới nhận ra.

 

Ví dụ: “Thánh thần, ánh sáng” thì đọc là “thắn thần, ắn sáng.”

 

6. Phụ âm “NG” ở cuối chữ bị đọc thiếu. Đây là trường hợp đa số người Nam khi hát các bài ca, lại muốn bắt chước giọng Bắc.

 

Ví dụ: “trên đường, phương hướng” đọc thành “trên đườn, phươn hướn.”

 

Việc bắt chước này cũng đưa đến trường hợp vài ca sĩ hát “buồn vui, bùi ngùi” thành “buồn vuôi, buồi nguồi.”

 

7. Phụ âm “N’ đứng cuối chữ thì dân Huế lại phát âm như “NG” như ký âmm /ŋ/ trong IPA.

 

Ví dụ: “Tui nói với hắn mềm nắn, rắn buông” thành “tui nói với hắng mềm nắng, rắng buông.”

 

8. Phụ âm “T” cuối chữ cũng được dân Huế nói thành “C.”
Ví dụ: “Hắn biết điều đó là thiệt” thành “hắng biếc điều đó là thiệc.”

 

9.  Người Huế cũng phát âm “oi” thành “o(a)i.”
Anh có hỏi thì tui mới nói” thành “Anh có  ho(ả)i thì tui mới no(á)i.

 

Hai trường hợp 6, 7 và 8 ở trên, chỉ thấy ở người Huế dù là dân thành phố. Dân Quảng Trị tuy chỉ cách Huế 60 cây số nhưng phát âm  rõ ràng các trường hợp này.

 

10. Dấu hỏi dấu ngã đọc thành dấu nặng hay đọc chéo nhau

Dân các tỉnh miền Bắc Trung Phần (các tỉnh từ Thừa Thiên ra tới Nghệ An) phát âm các dấu hỏi nghe như dấu nặng.

 

Ví dụ: “Phải chi anh hỏi tui trướcthì nói làphại chi anh họi tui trước.”

 

Lối phát âm này đã gây ra nhiều ngộ nhận ngỡ ngàng khi những người miền khác tiếp xúc với dân miền Trung. Thử tưởng tượng bạn ra Huế lần đầu đi thăm viếng ông bà nào đó và được hỏi “Cha mẹ anh còn đủ không?

 

Ngoài ra, chúng tôi từng đọc các bản văn và nghe nhiều vị người Huế viết và phát âm chữ có dấu hỏi thành dấu ngã và ngược lại. Ngay cả trên văn bản, báo chí và vài vị xướng ngôn viên, MC nổi tiếng.

 

Ví dụ: “Xin kể vài kỷ niệm mà mỗi chúng ta từng trải” thành “Xin kễ vài kỹ niệm mà mổi chúng ta từng trãi.

 

Con cái anh chị tuổi trẻ tài caoCháu trai ra kỹ sư, cháu gái học bác ” thành “Con cháu anh chị tuỗi trẽ tài cao! Cháu trai ra kỷ sư, cháu gái học bác sỉ.

 

11. Có một số chữ từ Bắc vào Nam bị đọc trại thành chữ mới (một phần do húy kỵ,

 tránh dùng tên các vua chúa nhà Nguyễn hay tên những vị nồi tiếng được kính trọng).

 

Ví dụ; Hoãn thành hưỡn, hoa thành huênguyên thành ngưônđường thành đàng, Phúc thành Phước, Cảnh thành Kiển, Hoàng thành HuỳnhChu thành Châu (Tên các chúa Nguyễn Hoàng, Hoàng tử Cảnh, Chúa Nguyễn Phúc Chu).

 

Một lý do mà người từ miền Trung trở vào có giọng khác với người Bắc là do sự tiếp xúc với những dân tộc Chiêm, Khmer ở những vùng đất mà cha ông chúng ta xâm chiếm. Họ phát âm chữ “S” rất rõ như / của phiên âm quốc tế (IPA); trong khi người Bắc nói nhẹ hơn. Phụ âm “V”, người Nam đọc thành “GI” (đi giô, bởi giậy).

 

Ngoài ra, đa số sự khác biệt là ở các nguyên âm hay các hợp âm bắt đầu bằng nguyên âm.

 

Ví dụ: chữ “Quảng Nam” dân Quảng Nam đọc là “Quảng Nôm” càng đi vào Nam, càng đọc trại ra là “nem.” Dân Quảng Ngãi thì đọc hai chữ Quảng Ngãi là “Quảng Ngỡi.” Khi ở trại tù Xuân Phước, tôi từng nghe một bà người Tuy Hoà (Phú Yên) chạy vào báo với tên cán bộ “hai thaèng phaẹạm bẻ bép” (hai thằng phạm (nhân) bẻ bắp). Dân Phan Rang và Nha Trang nói hai chữ này là “Phean Reang, Nhea Treang.” nhẹ hơn dân Tuy Hòa. Vùng Bình Định thì phát âm các chữ có hợp âm kép “ôi” thành “âu.”

 

Ví dụ thường nghe trong các chuyên đùa: Trời tối, đi đụng cái đầu gối. Đau thấy mụ nội thành Trời tấu đi đụng cái đầu gấu. Đau thấy mụ nậu.

 

Mỗi tỉnh lại có những đặc ngữ riêng mà phải bỏ hàng năm trời mới có thể sưu tầm được. Hai chục năm trước đây, chúng tôi đã ghi nhận khoảng mười lăm trang đặc ngữ Quảng Trị nhưng nay đã thất lạc.

 

Đến đây, chúng tôi xin phép tạm dừng, không dám bàn sâu vào các phát âm của miền Nam. Xin để dành cho các thức giả khác rành hơn góp ý vào.

 

Sự khác biệt các âm sắc của giọng nói là điều không thể tránh khỏi và cũng không thể bàn cãi. Người miền Nam hay Trung cũng xuất phát từ miền Bắc di dân theo thăng trầm lịch sử. Họ thay đổi giọng nói qua hàng trăm năm do kết quả một quá trình sinh sống trên một miền đất nước mới, ảnh hưởng bởi khí hậu, phong thổ, nguồn nước, và cũng ảnh hưởng bởi dân bản địa như Chàm, Miên… Chúng ta nên tôn trọng sự khác biệt này mà không thể tìm cách đặt ra một tiêu chuẩn chung cho cả nước.

 

Vấn đề ở đây là cố gắng để khi viết ra chữ, thì không vì các phát âm lệch đi mà viết theo cách lệnh đó. Phải viết thật đúng như những chữ đã có trong ngôn ngữ Việt Nam mà các nhà làm tự điển đã dày công góp nhặt và biên soạn.

 

Một điều cuối cùng mà chắc quý vị cũng cảm nhận ra. Đó là sự biến mất dần giọng nói thanh lịch mượt mà, ngọt ngào mà ngày xưa chúng ta thường lắng nghe một cách say mê của người Hà Nội – nhất là quý phụ nữ – từ trên các chương trình phát thanh, trên sân khấu kịch, trên bục giảng học đường. Từ sau 1975, chỉ còn giọng đanh đá, the thé, chua chát, nói rất nhanh của các cô gái miền Bắc cứ như sợ bị ai giành lời. Sự mất mát này xem ra cũng lớn lắm, không khác gì sự đánh mất tự do của người miền Nam.

 

 

Đỗ Văn Phúc

 

Tiếng Việt qua Ba Miền – Đỗ Văn Phúc

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *