Văn hóa ngọng

.

 

*

 

Lời giới thiệu:

 

 

Ngôn ngữ là một món quà quý báu mà thượng đế đã ban cho con người.  Ngôn ngữ với một số ràng buộc (luật) khá phức tạp về cách phát âm, chính tả, và văn phạm cũng là một phần rất quan trọng của văn hóa.  Qua cách dùng ngôn ngữ “đúng cách” (chuẩn, chính xác, đơn giản, dễ hiểu), con người những không chỉ đạt được mục tiêu trình bày trọn vẹn ý tưởng; mà còn vô hình trung làm cho mọi người chung quanh biết thêm về trình độ học vấn, tư cách, địa vị (chỗ đứng) của người sử dụng nó trong xã hội.

 

Trước hết người viết cũng xin thành thật mong quý vị thấy mục đích của bài này là một tạp bút giới thiệu một số phương ngữ của vùng, miền; trình bày thêm những những khó khăn mà người sử dụng đã gặp lúc cần phải giao tiếp với người sống ở bên ngoài môi trường cố hữu của mình.  Một số thí dụ và các ghi chép tự nhiên không thêm bớt từ nhiều nơi (nghe sao thì ghi lại y như vậy) sẽ được đề cập chỉ có tính cách tượng trưng, chứ không hề có ngụ ý “pha tiếng,” hay để “chửi” ai cả…  Người viết cũng muốn mạnh dạn và thận trọng nêu lên một số vấn đề phát âm, chữ viết vượt qua khỏi phạm vi giới hạn của địa phương cần được quan tâm cùng với các quan sát, nhận định  rất chủ quan (và người viết chờ mong sự chỉ trích của quý vị cao kiến) về sự phát âm khác biệt (nói nôm na bình dân học vụ là “ngọng”) theo vùng, miền của dân Việt nói chung và chính ngay gia đình cá nhân của người viết để chúng ta cùng góp thêm vào một giải thích, một phương cách khả dĩ có thể sửa chữa, làm thay đổi hoàn cảnh khó khăn trong lãnh vực thông tin, giao tiếp hiện nay.

 

Điểm đặc biệt đáng lưu ý là “phát âm khác biệt  theo vùng” và “ngọng,” xét cho kỹ, là hai vấn đề khác nhau; nhưng để đơn giản hóa, người viết sẽ gom cả hai thể loại này thành một dạng để tiện phân biệt với dạng “chuẩn” ở bên kia lằn ranh.  Cũng không khó khăn gì lắm, quý vị sẽ thấy rõ khi nào là “phát âm khác biệt” và khi nào là “ngọng” trong những dòng kế tiếp…

   

 

TVG

 

 

*

 

 

Ngọng thường xuất phát từ (địa) phương ngữ, thổ ngữ có nghĩa là chỉ chi phối, chỉ có ảnh hưởng giới hạn trong một miền, vùng, địa phương nào đó. Tuy nhiên trong thực tế, qua cuộc cách mạng tin học và với sự có mặt của một nền văn hóa xhcn “Mac Keno” không người lái, vinh quang vô địch… (trong cái văn hóa “Mac Keno”  – mặc kệ nó – chủ trương ngu dân thì việc dân bị ngọng cũng là chuyện tốt thôi; miễn sao dân ngu cứ việc “ngu” và đừng “phản động, chống đối đảng và nhà nước” là được rồi!)  Ngọng nói đã dần dà tràn lan qua ngọng viết và cả hai thứ ngọng trở thành quốc nạn hồi nào mà không hay.  Hãy nghe và xem các thí dụ thật –  không phải loại vu vơ chế nhạo để giải trí tiếng nói vùng miền trong các hài kịch rẻ tiền, vô trách nhiệm – Các “video clip” phỏng vấn các bác “nhân dân” trong nước, hoặc các tựa đề, các bài viết đứng đắn trên báo in và báo điện tử “lề phải,” băng rôn tuyên truyền của chính quyền cs, bảng chỉ dẫn lưu thông của “nhà nước,” bảng hiệu thương mại, quảng cáo của quần chúng toàn quốc trước mắt bàn dân thiên hạ, chúng ta không khỏi lo lắng ái ngại cho tương lai tiếng Việt.

 

Có lẽ chúng ta chưa hề thấy có thống kê chính thức nào cho toàn quốc Việt Nam về tỉ lệ dân chúng nói ngọng; nhưng theo cá nhân tôi, phải có đến trên 50%  dân số Việt Nam nói “ngọng” cách này hay cách khác.

 

 

Khái quát về phương ngữ ba miền

 

Nói ngọng là “đặc sản” của địa phương, là chuyện bình thường; Tuy vậy, lúc nào cũng có ngoại lệ.  Không phải bất cứ ai sống trong một vùng có người nói ngọng thì họ cũng đương nhiên phải nói ngọng.  Có nhiều người người sinh ra và sống ngay trong vùng nói ngọng, chẳng hạn đa số dân Hà Nội không nói ngọng “l, n,” mà họ lại “dị ứng” với việc nói ngọng, đó chưa kể đến chuyện họ đôi khi tỏ vẻ “kỳ thị” (khinh thường) đồng bào nói ngọng (!) 

 

Một lần nữa, những ghi chép sau đây chỉ có tính cách tượng trưng điển hình, không phải là tuyệt đối; tất nhiên còn cần nhiều bổ túc và sửa chữa.

 

 

 

1- Bắc kỳ

 

 

Cơ bản sự “ngọng” của dân Bắc kỳ là phát âm “nhẹ” hẳn đi các phụ âm dẫn đầu mỗi chữ (như tr, r, s…) Các Ngôn ngữ gia khắt khe hơn thì cho rằng người Bắc “lười” không chịu khó uốn lưỡi một chút cho đúng âm mà lại chọn khuynh hướng đọc dễ dàng hơn: giảm bớt cái âm uốn cong hay cao lên của phụ âm đầu.

 

Dân Bắc kỳ nhất là các vùng Hưng Yên, Hải Dương, Hải Phòng, Quảng Ninh, Nam Định, Hà Nam, Bắc Ninh..v..v.., và ngay cả dân cư đất “ngàn năm văn vật” – 13 huyện Hà Nội – rất “phổ thông” nói ngọng líu lo (và đặc biệt bị lưu tâm nhiều nhất) hai phụ âm “l, n.”  Chẳng hạn:

 

“Đi Hà lội mua cái lồi về lấu cơn lếp.”

(“Đi Hà nội mua cái nồi về nấu cơn nếp.”)

 

Hoặc là:

 

“Chỗ lước lày lông, lội được!”

(“Chỗ nước này nông, lội được!”)

 

Hay:

 

“Thằng Nong nàm việc thì nếu náo; nhưng nòng nợn thì ló gắp nia gắp nịa.”

(“Thằng Long làm việc thì lếu láo; nhưng lòng lợn thì nó gắp lia gắp lịa.”)

 

“Mình không nàm thì có bảo mình không nàm; mà mình nàm thì ló nại bảo mình nàm nấy nệ.”

(“Mình không ‘làm’ thì có bảo mình không ‘làm’ mà mình ‘làm’ thì ‘nó’ lại bảo mình ‘làm lấy lệ.’ ”)

 

Cứ tự nhiên như người Hà lội.”  Nghĩa là toàn bộ các chữ có “l” phang tới thành “n” hết ráo và ngược lại (!)

 

Đại đa số dân Bắc kỳ (kể cả người viết và gia đình) còn nói trật nguyên âm “r, d, gi” (“rờ” thành ra “dờ” hay “giờ”):

 

“Kính dâm.”

(Kính râm / kính mát.)

 

“Mấy giờ giồi?”

(“Mấy giờ rồi?”)

 

Một em xướng ngôn viên (bây giờ vi-xi gọi là “phát thanh viên”) của một chương trình truyền hình trên VTV ở Việt Nam loan báo tin thời tiết nghe mà muốn “dởn da gà” luôn như sau:

 

“Có mưa dào dải dác; nhưng dét da diết.”

(”Có mưa rào rải rác; nhưng rét (lạnh) ra riết.”)

 

 

“Mưa dừng ơi mưa dừng.”

(Như ông bạn Vũ Khanh của tôi ca lời bản nhạc “Mưa Rừng” của Huỳnh Anh)

 

Và nổi bật nhất và phổ thông nhất là sai nguyên âm “tr, ch” như:

 

“Mười lăm chăng chòn; mười sáu chòn chăng.”

(“Mười lăm trăng tròn; mười sáu tròn trăng.”)

 

Hay là:

 

“Đường xưa lối cũ có bóng che, bóng che che thôn làng

Đường xưa lối cũ có ánh chăng, ánh chăng soi đường đi…”

(Lời ca bài hát “Đường xưa lối cũ” của Hoàng Thi Thơ mà tôi nghe ca sĩ Quang Minh, dân Hải Phòng, hát).

 

Trong khi lời hát đúng phải đọc là:

 

“Đường xưa lối cũ có bóng ‘tre,’ bóng ‘tre’ che thôn làng

Đường xưa lối cũ có anh ‘trăng,’ ánh ‘trăng’ soi đường đi…”

 

Một số địa phương ở Bắc như Nam Định, Ninh BìnhThái Bình… vẫn phát âm đúng các phụ âm “r, d và gi” trong khi phần lớn các vùng khác (ở miền Bắc) đều phát âm sai…

 

Nên để ý, thật oái oăm, nghịch lý ở đây là hai thứ ngọng (có lẽ vì lười không chịu uốn lưỡi?!) rành rành “tr” thành “ch” và “r” thành “d, gi” của dân Bắc kỳ lại được đại chúng có khuynh hướng rộng lượng chấp nhận như là “dạng chuẩn” riêng trong vấn đề hát lời ca của ngành tân nhạc (?)  Một vài ca sĩ không phải gốc Bắc kỳ như Ngọc Hạ (Đà Nẵng / Quảng Nam, miền Trung), và Phương Dung (Gò Công, miền Nam) khi hát tân nhạc đôi khi đã cố tình phát âm đúng chữ “tr” (trăng, trong, trời…) chứ không đổi sang “ch” như thông lệ thì nghe lại có vẻ rất căng thẳng (?) và ngượng ngạo (?)  Thành ra vấn đề âm thanh ngọng (mà thuận tai?) được chấp nhận (hay không) còn tùy vào sự cảm nhận của đại chúng…  Như vậy, không có gì gọi là “chuẩn” tuyệt đối cả.

 

Vùng Hải Hậu, Nam Định thì lại ngọng “tr, t” một cách khác:

 

“Con tâu tắng nằm cạnh gốc te tụi giữa tưa hè.”

(“Con trâu trắng nằm cạnh gốc tre trụi giữa trưa hè.”)

 

Tương tự, một số dân ở địa phương Thái Bình thì lại ngọng ngược lại với các vùng khác hai chữ “r, d” nghe rất lạ tai (ở đây “d” lại thành “r” – âm “dờ” thành ra “rờ”).  Như bà hàng xóm của tôi (gốc Thái lọ) là dân di cư 1954 ở Sài gòn cứ gọi con ơi ới:

 

“Rương ơi Rương!  Ra đây mẹ cho miếng rưa.”

(“Dương ơi Dương!  Ra đây mẹ cho miếng dưa.”)

 

Hà Tây, Hà ta thì thì cũng “lười,” bỏ bớt dấu huyền của mỗi chữ cho nó đỡ vướng:

 

“Con bo vang.”

(“Con bò vàng.”)

 

Hát là:

 

“Nhin chiêu vang đôi thông thưa thớt

Long bôi hôi buôn trong theo bóng…”

 (“Nhìn chiều vàng đồi thông thưa thớt…

Lòng bồi hồi buồn trông theo bóng…”)

(Lời bản nhạc “Chiều Vàng” của Nguyễn Văn Khánh)

 

Người Bắc đọc sai tất cả chữ phụ âm “s” thành âm “x” hết ráo trọi; trong khi người miền Trung và miền Nam lại phân biệt “s, x” rất rõ ràng.  Bắc kỳ đọc “s, x” như sau đây:

 

“Xáng xớm xương xuống xào xạc; xã xệ xửa xoạn xuống xuồng xang xông.”

(“Sáng sớm sương xuống xào xạc; xã xệ sửa soạn xuống xuồng sang sông.”)

 

Mẹ tôi còn kể thêm là ở ngoài Bắc, có vùng còn ngọng nguyên âm “s, x” ra “th” mà tôi chưa kiểm chứng được xem ra loại ngọng này thuộc vùng nào (? Kính nhờ các bác uyên thâm bổ túc dùm nhà cháu ở phần này):

 

“Thúng hay thấm? Hay trẻ con thậm thàn.”

(“Súng hay sấm? Hay trẻ con dậm sàn.”)

 

 

 

2-  Trung kỳ

 

Dân Trung kỳ (Huế và các xứ Quảng) hầu hết nói chéo (sai) hai dấu hỏi ngã:

 

“Đễ kỹ niệm…”

(“Để kỷ niệm…”)

(Nhà văn PNN tiếp lời MC Nam Lộc trên một “Asia DVD” trong chủ đề “Vinh danh người lính QLVNCH”).

 

Hoặc đổi nguyên âm “t” thành “c” ở cuối chữ:

 

“Làm lụng đàu tắc mặc tối.”

(“Làm lụng đầu tắt mặt tối.”)

 

Người Huế chính gốc “ớt hiểm, mắm ruốc” còn chơi thêm dấu “nặng” vào hầu hết các các chữ; và đồng thời thêm “g” ở cuối chữ “không g.”  Hiểu như vậy thì quý vị cũng đừng ngạc nhiên khi một cô thợ hớt tóc người Huế thơ mộng hỏi:

 

“Anh muốn cắt dài hay cắt ngắn?”

 

Hay là:

 

“Đêm qua em ngủ không đủ (?)”

 

Huế, nhất là xứ Quảng, đôi khi xài sang, cho thêm nguyên âm “o, a” ở giữa chữ cho long trọng:

 

Đ(o)ám no(á)i / Đám nói

 

Hay:

 

“Đ(o)ám ho(ả)i / Đám hỏi.

 

Hoặc:

 

“Lâu đ(o)ài tình (o)ái.” / Lâu đài tình ái.”

 

Quê ch(o)a” / Quê cha.”

 

Dân xứ Quảng (Nam) nói sai nguyên âm “a, ă, e, ê, iê:”

 

“Nôm boa bửa không tém một bửa.”

(Đọc số phone: “537-0817”)

 

Chị gái Biệt đội Thiên Nga (?) nói với MC NNN của PBN:

 

“Em có bằng tú tài hưa.”

 

Vùng Bình Định Qui Nhơn phát âm “hơi sai” nguyên âm “a, ă, e, ê, iê:”

 

“Eng.  Không eng thì téc đèng đi ngủ.”

(“Ăn.  Không ăn thì tắt đèn đi ngủ.”)

 

Hoặc:

 

Chó kếng / Chó cắn;” “Nghem / Nghiêm.”

 

Dân Khánh Hòa, Phú Yên ngoài “a, ă, e, ê, i, ê…” (nhưng nghe sai có vẻ nhẹ nhàng hơn người Bình Định) còn đọc “ơ” thành ra “u” mới chết người.  Gia đình thằng em cột chèo của tôi người Nha Trang (Khánh Hòa) thoải mái mời tôi:

 

Mời anh ở lại ăn cum. / ăn cơm.

 

 

 

3- Nam kỳ

 

Dân Nam kỳ, đa số, có khó khăn khi phát âm các chữ bắt đầu bởi phụ âm “v, d.”  Chẳng hạn:

 

“Dâng dzệ dê dzợ dâng dzậng.  Dâng dzậng dzậng dâng dzệ.”

(“Dân vệ dê vợ Dân vận.  Dân vận giận” – Anh lính Dân Vệ mê vợ của anh cán bộ của Ty Dân Vận Chiêu hồi.  Anh cán bộ Dân Vận Chiêu Hồi giận !)

 

Hoặc: 

 

Cười lên đi để dzăng dzàng sáng chói / Răng vàng.”

(Lời hát nhái trong dân gian cho câu “Kìa thôn quê dưới trăng vàng bát ngát” từ bài “Khúc ca ngày mùa của Lam Phương).

 

Hoặc:

 

“Đi đâu chơi mới dzề hả? Dzui hông?…”

(“Đi đâu chơi mới về hả? Vui không?”)

 

Và sai lẫn lộn phụ âm “t, c” ở cuối mỗi chữ, đồng thời đôi khi tiện tay bỏ bớt nguyên âm (a, e, i, o, u) ở giữa chữ:

 

Kếch chặc tình thâng hủ / Kết chặt tình thân hữu;”

 

Cúi từng có giá đặc biệc. / Cuối tuần có giá đặc biệt.”

 

Đồng bào “Nam bộ” ta cũng dùng chéo (sai) hai dấu “hỏi ngã” và thêm “g” vào chữ “không g” như các bác Trung kỳ:

 

“Cho tui xinh nửa chéng cơm nửa.”

(“Cho tôi xin nửa chén cơm nữa.”)

 

Tổ quắc ăng năng / ăn năn”

 

Bà mẹ vợ tôi, người gốc Long Xuyên, khi nói đã tự ý đổi “y” thành “i” ở cuối chữ; đôi khi nghe cũng dễ bị hiểu lầm lắm (?):

 

“Tịm chúng tôi có báng đủ các lọi đồng hồ đeo ‘tai’. ”

“Tiệm chúng tôi có bán đủ các loại đồng hồ đeo ‘tay’ ”

(Như lóng rày ca sĩ BC làm quảng cáo cho tiệm đồng hồ “Tic-Toc” trên TV Việt ngữ) .

 

Riêng dân vùng đồng bằng sông Cửu Long: Cần Thơ, Bạc Liêu, Sóc Trăng còn ngầu hơn, miệt này phát âm chữ “r” thành ra “g” nghe thoáng như lưỡi bị ngắn (?) hoặc giống tiếng Miên (?):

 

“Bắc con cá gô bỏ gổ, nó gục gịch gục gịch gớc dzào gổ gao găm.”

(“Bắt cá rô bỏ rổ, nó rục rịch rục rịch rớt vào rổ rau răm” ).

 

Tôi có rất nhiều bạn nói kiểu “đi ga… chết gồi” (“đi ra… chết rồi”) này.  Nghe riết rồi cũng quen tai.

 

 

Ngoài ra, còn có hàng chục thổ ngữ nhỏ khác với cách phát âm và chữ dùng mà người vùng khác không tài nào hiểu nổi.  Tuy nhiên bài viết ngắn này chỉ là một bài tạp bút không phải là một bài khảo cứu ngôn ngữ; cho nên, trong phạm vi giới hạn, không tiện kể ra hết cho hoàn tất, đầy đủ. Nếu hưởn, quý vị có thể tự tìm hiểu thêm …  Có một điều đáng để ý là người miền Nam nói sao thì họ viết y như vậy cho nên người Nam dễ bị sai chính tả (ngọng viết) hơn là đồng bào miền Bắc và Trung – Người miền Bắc và Trung tuy phát âm sai nhưng phần lớn lại viết rất đúng chính tả!

 

 

 

Kinh nghiệm gia đình và cá nhân người viết

 

Tôi sinh ra tại vùng ngoại ô của thành phố Hải Phòng vào năm 1950 và lớn lên ngay giữa trung tâm thành phố này – Thật ngẫu nhiên, Hải Phòng cũng là sinh quán của một số văn nghệ sĩ tên tuổi đương thời như: nhạc sĩ Văn Cao, Gia đình Lữ Liên (Lữ Lỉên, Thúy Liễu, Bích Chiêu, Tuấn ngọc, Khánh Hà, Anh Tú, Thúy Anh, Lưu Bích… cả tiểu đội!), kép cải lương Hùng Cường, minh tinh Thẩm Thúy Hằng, nhạc sĩ Ngô Thụy Miên, ca sĩ Thu Phương, Quang Minh… (người viết xin phép được tiện đây thấy người sang bắt quàng làm họ một tí lấy hơi!) nhưng đồng thời tôi cũng tự phát giác ra Hải Phòng là “thủ đô nói ngọng” (loại “phản cảm,” “nhà qué” “có 102 – ‘một không hai’ ” “l, n”) của Việt Nam (Lưu ý: Tôi thấy các “siêu sao” gốc Hải Phòng nổi tiếng mà tôi vừa liệt kê ở trên không có “sao” nào nói ngọng “l,n” cả mới là lạ!). 

 

Gia đình nhỏ của bố tôi có 3 anh em trai, tất cả đều sinh ra tại Hải Phòng.  Tôi cứ nhắm mắt mà vẫn yên tâm cam đoan là cả ba người (bố tôi và hai ông chú) đều nói ngọng lúc thiếu thời…  Khi lớn lên, bố tôi và một ông chú nhỏ tuổi nhất làm “cách mạng kinh tế” phá rào, vượt qua lũy tre xanh, rời xa khỏi địa bàn “ngọng níu noHải Phòng, đi lính quốc gia…  Kết quả, sau này hai người (Bố tôi và ông chú trẻ) nói và viết tiếng Việt không còn ngọng một tí ti ông cụ nào.  Riêng ông chú trẻ kế bố tôi ở lại “bám trụ” Hải phòng ngay từ ngày đầu chú mới sinh ra cho tới tận bây giờ; thì ông chú này và 8 đứa con vẫn ngọng đặc cán mai.  Năm 1948, bố tôi 24 tuổi từ Sài gòn trở về Bắc làm cảnh sát Hải Phòng; và lập gia đình với mẹ tôi – mẹ tôi cũng là dân sinh quán Hải Phòng; và chính mẹ tôi cũng nói ngọng “l, n” khá nặng.  Tôi và 3 đứa em lớn được sinh ra tại Hải Phòng.  Năm 1954 gia đình tôi (bố mẹ và 4 anh em tôi) tị nạn cs, theo làn sóng di cư vào Nam.  Đến hôm nay, gia đình tôi có cả thẩy 8 anh em ruột và gia đình ông chú trẻ nhất của tôi có 5 đứa con; tất cả chúng tôi (tổng cộng 13 người con của thế hệ thứ nhì) không có một ai nói ngọng “l, n” (nên biết chúng tôi nói rặc tiếng Bắc 54 y chang như quý vị nghe giọng nói của ca sĩ Vũ Khanh hay Ý Lan – hoàn toàn khác hẳn với giọng Bắc kỳ 75 của Bằng Kiều, Nguyễn Hồng Nhung).

 

Năm 2005 tôi có dịp về Việt Nam, ghé qua thăm quê quán Hải Phòng thì mới thấy là tất cả toàn bộ (“chăm phần chăm”) họ hàng bên nội bên ngoại của tôi đều ngọng “l, n” hết ráo.  Môt cô cháu gái của tôi, tuổi hai mươi mấy, trông dáng trắng da dài tóc xinh xắn, làm giáo viên tiểu học ở Hải Phòng,  cũng ngọng “l, n” rất trầm trọng (có nghĩa là tất cả các chữ “l” đều đánh ra thành “n” và ngược lại); Ngọng líu lo (“l, n”) mà làm nghề mô phạm dậy trẻ con thì xem ra còn tệ hơn là đặc công khủng bố (văn hóa).  Làm thiệt mạng (rất nhiều) người chứ chẳng phải chuyện đùa!

 

Qua kinh nghiệm của gia đình và cá nhân tôi thì sự phát âm sai (ngọng) phần lớn là vì ảnh hưởng của môi trường phát âm sai (Hải Phòng); không phân biệt được chữ đúng…  Nếu có dịp đi ra khỏi môi trường ngọng này, như bố tôi chẳng hạn, và hội nhập vào môi trường phát âm đúng; hoặc có người chỉ dẫn như được học hành với thầy cô nói tiếng Việt chuẩn thì sự “ngọng” có thể dần dần sửa chữa được – Như vậy, “ngọng” là một bệnh nan y thật nhưng không phải là hoàn toàn hết thuốc chữa…

 

Điều đáng chú ý là ngoại trừ loại ngọng “phản cảm” “l, n”; hầu hết các loại ngọng hay phát âm sai bét khác đều được công chúng dễ dãi xí xóa thông cảm.  Ngọng “l, n” đặc biệt bị phân loại là “sai cơ bản,” “bất bình thường” “không chấp nhận được.”  Trong giao tiếp bình thường mọi ngày, người ngọng “l, n”  đôi khi còn bị hiểu lầm và bị “đánh giá” thấp như “nhà quê,” “ít học,” “kém văn hóa…”  Trời đất!  Quê tôi!

 

 

Bàn thêm một chút về lý do ngọng

 

Bên trong vòng đai lũy tre xanh, một cộng đồng khép kín, buổi sáng thức dậy đi làm ruộng, tối trở về nhà ăn uống nghỉ ngơi rồi ngày mai lại thức dậy đi làm ruộng tiếp thì với cuộc sống đơn giản như vậy, số người tiếp xúc hàng ngày chỉ loanh quanh là người trong gia đình làng xóm… Lời ăn tiếng nói hàng ngày và phong tục đã thấm sâu vào trong con người.  Sự nói ngọng (phát âm sai) đã trở thành thói quen chung (cả làng đều ngọng cả), không ai thấy có nhu cầu hay tác động gì cần thiết phải sửa đổi. 

 

Sau khi ra khỏi lũy tre xanh, gia nhập một cuộc sống phức tạp hơn, bon chen hơn, phải giao tiếp rộng rãi hơn với mọi người khác xứ; rồi qua phản ứng của họ (người khác xứ nghe mình nói ngọng thương hổng nổi!) người phát âm sai lúc đó mới cảm thấy được những cái bất lợi của việc phát âm sai của mình.  Từ đó tác động vào ý muốn sửa chữa, vượt qua những lỗi phát âm. 

 

Có một anh chàng  đẹp trai nhưng nói “ngọng”vừa chân ướt chân ráo ra khỏi lũy tre xanh; vào một buổi đẹp trời phải lòng một em gái văn minh phố thị.  Mặc dù anh biết cô em nhiều lần tỏ vẻ lạnh lùng không muốn thân thiện (phần lớn cũng chỉ vì kỳ thị tiếng nói ngọng của anh), nhưng anh đẹp trai đã lỡ yêu rồi nên cũng liều, cố lấy hết can đảm viết ra một lá thư tình “ngọng.”  Quý vị thử tưởng tượng xem khi đọc lá thư “phản cảm” này đại khái như dưới đây thì liệu cô nàng “xí xọn, khó tính” có mủi lòng rồi đổi ý hay không?

 

“Em Nan ơi.  Anh đã nhiệt niệt no nắng cho em đủ mọi chuyện thế mà em vẫn chưa hiểu cho nòng anh; Em vẫn tỏ vẻ nạnh nùng với anh.  Bây giờ anh không biết phải nàm thế lào để nấy được nòng em….

 

Anh Nễ.”

 

Em Lan (“Nan”) vì đã “dị ứng” sẵn với sự ngọng của anh Lễ cho nên tỏ vẻ cự tuyệt hơi quyết liệt.  Em Lan dùng chính ngôn ngữ của anh “Nễ” trả lời anh “Nể” vì mong anh “Nễ” dễ hiểu rõ ý của em.  Em Lan viết trả lời anh “Nễ” đại khái như vầy:

 

“Anh Nễ nàm em sợ nắm.  Em còn bé, không dám nghĩ đến chuyện tình cảm người nhớn…  Nếu anh không giận em thì xin anh vui nòng nàm phúc ‘sơ tán’  qua vùng khác nàm ăn để em còn yên chí học hành; no cho tương nai.

 

Em Lan.”

 

 

Chuyện tình cảm tha thiết, thành thật, đứng đắn mà không may dùng phải chữ nghĩa ngượng ngạo của vi-xi; cộng thêm chữ viết ngọng thì là một thảm kịch chứ không giống hai người đang diễn hài (kịch)…  Có lẽ anh Lễ cần rất nhiều may mắn (và cả phúc đức nữa) mới có cơ may kết duyên với một em gái không ngọng. 

 

Thiệt tình.  Ai bảo cuộc đời này không bất công?

 

 

Làm sao sửa được tật nói ngọng

 

Trước hết người nói ngọng phải tự ý thức được sự ngọng của mình  thì vấn đề sửa đổi mới có hiệu quả – Cái mục này nói thì dễ lắm mà làm là chuyện vượt cả Trường Sơn Đông lẫn Trường Son Tây trong một buổi…  Đối với một số người bảo thủ lý luận là: “Đây là  tiếng mẹ đẻ; cha ông tôi đều nói như vậy.  Tại sao phải thay đổi? thì đành chịu thôi…

 

Khoảng 5 tuổi trở lên, trẻ con bắt đầu hiểu được tiếng nói, và biết bắt chước cách phát âm tiếng mẹ đẻ.  Nếu ngôn ngữ được uốn nắn ngay từ lúc này thì rất tốt (kể ra càng sớm càng tốt).  Người đứng ra hướng dẫn và uốn nắn tốt nhất là thầy cô giáo vì ngay cha mẹ nhiều khi cũng đã ngọng sẵn rồi còn gì.  Các cô giáo có than phiền là dù đã tương đối thành công sửa giọng ngọng của các em ở trong lớp; nhưng khi các em trở về nhà, sống giữa gia đình ông bà bố mẹ anh chị đều nói ngọng thì các em lại ngọng trở lại…  Xem ra “sự nghiệp giải phóng dân tộc” còn dễ hơn là “sự nghiệp giải phóng chứng nói ngọng!” 

 

Muốn chữa nói ngọng thì phải nói cho chậm rãi để có thời giờ nghĩ và chỉnh các âm sai.  Thầy giáo và bạn bè thân thiết có thể giúp đỡ rất hữu hiệu trong việc nhận diện các âm sai và sửa sai.  Quan trọng nhất là sự kiên tâm, chịu khó luyện tập lâu dài.  Ở Mỹ có những chuyên viên về sửa chỉnh ngôn ngữ (Speech Therapist / Speech Therapy) được đào tạo đặc biệt để giúp các công dân Mỹ có vấn đề phát âm Anh Ngữ như ngọng, cà lăm.  Các tay chơi thể thao nổi tiếng như Bill Walton (chơi basketball), Bo Jackson (chơi football) bị “cà lăm” rất nặng khi họ mới xuất hiện trong các cuộc phỏng vấn từ của các đài truyền hình thể thao phát hình các trận đấu giữa các trường đại học hoặc thể thao chuyên nghiệp.  Thế mà chỉ sau một thời gian ngắn, nhìn thấy rõ là họ đã có thể trở thành người ăn bình thường, trôi chẩy khi họ đảm nhận các vai trò phân tích thể thao (sport analysts) cho truyền hình Mỹ trong các trận đấu.

 

Đã có nhiều ý kiến cấp tiến khá mạnh dạn cho rằng giải quyết vấn đề ngọng phải bắt đầu ngay từ lớp thấp nhất của trường tiểu học.  Các trường sư phạm đào tạo thầy giáo, cô giáo tiểu học được đề nghị sẽ phải bắt buộc có điều kiện thu nhận khắt khe:  Chỉ thu nhận thí sinh, sinh viên sư phạm (làm thầy giáo trong tương lai) không ngọng. Có như vậy thì mới mong tìm ra lời giải, cách xuyên phá được “vòng lẩn quẩn” (dirty cycles), của bài toán “ngọng.”  Tình trạng ngọng hiện nay ở trong nước thật đáng bi quan: Nhiều trường học của các huyện nằm ngay trong thủ đô, cái nôi văn hóa, Hà Nội (huyện Đông Anh hay Mê Linh chẳng hạn) có đến 30-40% tổng số học sinh tiểu học nói ngọng và 20-30% giáo viên ngọng – mà cả thầy Hiệu trưởng và “Hiệu Phó” cũng ngọng luôn thể!

 

 

“Còn trời còn đất còn non nước

Có lẽ ta đâu (ngọng) mãi thế này.”

(“Quân Tử Cố Cùng” – Nguyễn Công Trứ)

 

 

 

 

Trần Văn Giang

 

Văn hóa ngọng – Trần Văn Giang.

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *